BÀI LÀM

Tình cảm gia đình luôn là những tình cảm thiêng liêng, đáng trân trọng. Không nhắc tới tình mẫu tử, cũng không phải là tình phụ tử, Bằng Việt đã khắc họa thật cảm động tình bà cháu qua hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa.

Bằng Việt sáng tác thơ từ đầu những năm 1960 của thế kỉ trước và trở thành một trong những gương mặt nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài. Bài thơ đã khắc họa chân thực hình ảnh người bà trong tâm trí đứa cháu và đặc biệt là sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu

Kỉ niệm được gợi về thực đơn giản, chỉ bằng ánh lửa bập bùng hiện lên trong tâm trí đứa cháu đang xa nhà:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm    
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm          
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh bếp lửa xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm trong màn sương sớm. Đó là hình ảnh của một “bếp lửa chờn vờn”, “ấp iu nồng đượm”. Từ “chờn vờn”, “ấp iu” đã gợi lên hình ảnh của một bếp lửa đang cháy, nhưng chỉ mờ ảo, không rõ là thực hay hư bởi nó đã được lớp sương mờ che phủ. Cũng như vậy trong tâm trí đứa cháu, bếp lửa chỉ hiện rõ ràng khi có sự xuất hiện của người bà với sự tảo tần, lam lũ. Bếp lửa xuất hiện cũng thổi bùng lên nỗi nhớ và khiến cho những kỉ niệm ùa về như thác lũ:

   Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi  
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy   
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu  
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Từ thời ấu thơ, cháu đã ở cùng bà, đã quen với mùi khói bếp mỗi khi bà nhóm lửa. Trong kí ức của đứa trẻ ấy, quãng thời gian được sống cùng bà năm 4 tuổi là quãng thời gian khó khăn và thiếu thốn đến tột cùng. Cụm từ đói mòn đói mỏi giúp ta hình dung về thảm cảnh của nạn đói năm 1945, quốc nạn đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu đồng bào ta. Ám ảnh  trong tâm trí của đứa cháu là hình ảnh: “Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”. Cái đói hiện hình trong từng con người, sự vật xung quanh cháu và trở thành một nỗi ám ảnh khôn nguôi. Thần chết luôn đeo đuổi và không trừ bất cứ ai. Dù không nhắc tới nhưng người đọc cũng có thể cảm nhận sự biết ơn và tình thương vô hạn của đứa cháu dành cho bà “Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”. Bởi lẽ, để vượt qua được quãng thời gian kinh khủng ấy, người bà chắc chắn đã phải giật gấu vá vai, thắt lưng buộc bụng, tảo tần để nuôi đứa cháu để rồi mỗi khi nhớ lại về năm ấy, hiện lên trong suy nghĩ của cháu là khói bếp hun đến nhèm cả mắt.

Bếp lửa lại một lần nữa xuất hiện trong kí ức của đứa cháu trong tám năm ròng ở cạnh bà, cùng bà nhóm lửa:

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
 … Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Tiếp nối những ngày dài trong kí ức tuổi thơ của đứa cháu vẫn là hình ảnh của bếp lửa gắn với người bà. Và ở đoạn kí ức này, ta còn thấy xuất hiện thêm cả âm thanh của quá khứ, đó chính là tiếng chim “Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”. Cháu phải sống xa bố mẹ vì “Mẹ cùng cha công tác bạn không về” và cũng vì thế, bà trở thành cha cũng là mẹ của cháu. Người bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn dạy cho cháu cách làm việc, nhắc nhở cháu học hành. Quan trọng hơn nữa, bà còn là người đã nuôi dưỡng và hình thành trong đứa cháu một nhân cách sáng ngời, một sự kiên cường, bất chấp mọi khó khăn, gian khổ:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
…Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” 

Vất vả là thế, khó khăn là thế nhưng chưa bao giờ bà than vãn nửa lời. Ngay cả khi căn nhà của bà – tài sản có giá trị nhất trong cuộc đời của người nông dân, bị đốt cháy rụi cùng làng, bà vẫn không hề nao núng mà dặn đi dặn lại, không cho đứa cháu kể chuyện buồn lo trong thư với bố mẹ. Trong suy nghĩ của bà, những đứa con của mình còn phải lo những việc lớn hơn, sao có thể để chúng lo lắng vì chuyện nhỏ nhặt này được? Đằng sau lời nói chắc nịch ấy là nỗi lo lắng cho con, cho cháu của bà. Bởi lẽ, nếu sự thật được nói ra, bố mẹ đứa trẻ sẽ lo lắng và không thể yên tâm công tác được nữa. Mọi hành động của bà đều chỉ xuất phát từ tình yêu thương bao la của bà với con, với cháu mà thôi.

Càng về cuối bài thơ, giọng thơ càng trở nên da diết, mãnh liệt:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen 
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn         
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng “

Bà tần tảo, bà vất vả thức khuya dậy sớm, để nhóm lửa, làm ngọn lửa, bếp lửa sáng lên, sưởi ấm hạnh phúc gia đình, thấm sâu vào tình thương vào tâm hồn con cháu. Nhờ thế mà sức sống, nguồn sống, nguồn vui hạnh phúc gia đình dai dẳng, bền bỉ, bất diệt. Tác giả đã sử dụng một loạt những động từ “nhen”, “ủ”, “chứa” và hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa được tác giả dùng thật đắt, nói lên thật đẹp niềm tin nếp sống đó. “Đời bà lận đận” trải qua nhiều “mưa nắng” suốt mấy chục năm rồi, cho “đến tận bây giờ” bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm” để nhóm bếp lửa, vì sự ấm no hạnh phúc của con cháu. “Niềm yêu thương”, “khoai sắn ngọt bùi”, “nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”, “những tâm tình tuổi nhỏ”… đều do bà nhóm. Điệp ngữ “nhóm” bốn lần cất lên làm sáng bừng vần thơ, làm sáng tâm hồn con cháu. Có thể nói đây là những câu thơ đẹp nhất nói về bà và hình ảnh bếp lửa:

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm.                
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi 
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui             
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.         
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”                

Người đọc cảm thấy mái ấm hạnh phúc gia đình mỗi sáng mỗi chiều. Câu cảm thán cuối đoạn thơ như một tiếng reo cất lên của đứa cháu nhỏ, tiếng reo của ngọn lửa bập bùng trong bếp lửa được bà “nhen” lên và “ủ sẵn” cả cuộc đời. Hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa luôn luôn gắn bó với người bà thân yêu. Dù đang sống và học tập ở phương xa, đứa cháu vẫn luôn nhớ khôn nguôi về người bà đôn hậu và bếp lửa ở quê nhà. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ làm cho nỗi nhớ bà, nhớ bếp lửa, nhớ gia đình, nhớ quê hương càng trở nên sâu lắng, thiết tha, bồi hồi: .

Giờ cháu đã đi xa có ngọn khói trăm tàu 
Có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả          
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở 
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?        

Thơ ca dân tộc chưa có nhiều bài thơ viết về người bà kính yêu trong gia đình. Nguyễn Duy nói về bà ngoại qua bài thơ “Đò Lèn” với kí ức tuổi thơ thật cảm động. “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ cứ cuốn hút lấy tâm hồn tuổi thơ chúng ta. Hình ảnh người bà thân thương và hình ảnh bếp lửa được tác giả nói đến vừa gần gũi thân quen, vừa thiêng liêng kì lạ. Tình cảm là nguồn sống của tâm hồn, là sức sống của thi ca. “Bếp lửa” quả là có nguồn sáng và sức sống dào dạt như vậy.

Đề 18: Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt
Đánh giá bài viết