Đề 21: Cảm nhận về bài Bảo kính cảnh giới (bài số 43) của Nguyễn Trãi.

BÀI LÀM

Trong số 254 bài thơ của Quốc âm thi tập, có tới 61 bài thuộc nhóm thơ Bảo kính cảnh giới (Gương báu rắn mình). Riêng về mặt số lượng – chiếm gần một phần tư – Bảo kính cảnh giới đã có vị trí quan trọng trong thi tập. Tuy nhiên, điều đáng nói là thơ Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trãi không chỉ giáo huấn, khuyên răn, triết lí. Bảo kính cảnh giới trước hết là thơ rất hay, thơ đích thực thể hiện tâm hồn thi sĩ. Bài Bảo kính cảnh giới số 43 là tấm “gương báu răn mình” nhưng qua đó lại thấy đậm nét hơn cả là cuộc sống, tâm sự tác giả, thấy ngôi sáng hơn cả là tâm hồn và lí tưởng của thi sĩ Ức Trai.

Trước hết, bài thơ cho ta thấy sự giao cảm với thiên nhiên tạo vật của hồn thơ Nguyễn Trãi.

Ức Trai là nhà thơ của thiên nhiên: “Non nước cùng ta đã có duyên” (Tự thán – Bài 4). Ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh: thời chiến, thời bình, lúc buồn, khi vui, lúc bận rộn, khi thư giãn… Trong hoàn cảnh nào tâm hồn nhà thơ cũng rộng mở đón nhận thiên nhiên: “Túi thơ chứa hết mọi giang san” (Tự thán – Bài 2)

Thật hiếm hoi và có phần đặc biệt khi ta gặp trong thơ Ức Trai một hoàn cảnh:

Rồi hóng mát thuở ngày trường.

Thời gian rảnh rỗi, tâm hồn thư thái, thanh thản, khí trời mát mẻ, trong lành… Một ngày như thế trong đời Nguyễn Trãi đâu nhiều. Ông là người “thân” không nhàn mà “tâm” cũng không nhàn. “Một phút thanh nhàn trong thuở ấy” với Ức Trai đáng quý biết bao. Quả hiếm hoi mới có một hoàn cảnh lí tưởng đến thế – cả khách quan và chủ quan – để làm thơ, để yêu say cảnh đẹp.

Thi nhân xưa đến với thiên nhiên thường bằng bút pháp vịnh, ở đây Nguyễn Trãi lại thiên về bút pháp tả. Hiện lên trước mắt người đọc là một bức tranh cuối mùa hè rất sinh động và đầy sức sống.

Tính sinh động của bức tranh được tạo nên bởi sự kết hợp giữa đường nét, màu sắc, âm thanh, con người và cảnh vật: màu lục của lá hòe làm nổi bật màu đỏ của hoa thạch lựu và ánh mặt trời buổi chiều như dát vàng lên những tán học xanh. Tiếng ve inh ỏi – âm thanh đặc trưng của mùa hè, hòa cùng tiếng “lao xao chợ cá” – âm thanh đặc trưng của làng chài.

Về thời gian, cảnh vật đang ở vào khi cuối: cuối mùa (“Hồng liên trì đã tin mùi hương” – Hoa sen tàn đã hết hương thơm), cuối ngày (“tịch dương” – mặt trời sắp lặn). Nhưng sự sống thì không dừng lại. Hãy lưu ý cách tác giả dùng các động từ “đùn đùn”, “giương”, “phun”. Có một cái gì thôi thúc tự bên trong, đang ứa căng, đang tràn đầy, không kìm lại được, phải “giương” lên, phải “phun” ra, hết lớp này đến lớp khác. So sánh câu thơ tả cảnh cuối hè của Nguyễn Trãi: “Thạch lựu hiện còn phun thức đỏ” với câu thơ tả cảnh mùa hè của Nguyễn Du: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông” (Truyện Kiều) ta thấy cả hai thi sĩ tài ba đều có cái nhìn tinh tế đối với cảnh vật. Với từ “lập lòe”, Nguyễn Du thiên về tạo hình sắc. Với từ “phun”, Nguyễn Trãi lại thiên về tả sức sống.

Cảnh vật cuối hè được miêu tả với hình ảnh rất đặc trưng: sen tàn đã hết mùi hương. Thêm vào đó là cách ngắt nhịp 3/4 – cách ngắt không theo nhịp 4/3 của thơ luật Đường hoàn chỉnh – đã tập trung được sự chú ý của người đọc, làm nổi bật hơn cảnh vật vào thời điểm cuối hè.

Thạch lựu hiên / còn phun thức đỏ
Hồng liên trì / đã tiễn mùi hương.  

Qua bức tranh thiên nhiên sinh động và đầy sức sống, chúng ta thấy được sự giao cảm mạnh mẽ nhưng tinh tế của nhà thơ đối với cảnh vật. Thi nhân đã đón nhận cảnh vật với nhiều giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác và cả sự liên tưởng nữa. Sự giao cảm mạnh mẽ không làm mất đi vẻ tinh tế của hồn thơ Ức Trai, Cùng viết về cảnh mùa hè, cũng với sự giao cảm mạnh mẽ nhưng bộc trực, các tác giả thời Hồng Đức đem đến cho người đọc một bức tranh với vẻ đẹp mộc mạc và có phần thô ráp:

Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi     
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè
                           (Lại vịnh nắng mùa hè – bài 3)

Nguyễn Trãi không thế. Ông biết hòa màu sắc, âm thanh, đường nét theo quy luật của cái đẹp trong hội họa, trong âm nhạc, làm cho bức tranh thiên nhiên vừa có hình, vừa có hồn, vừa gợi tả, vừa sâu lắng. Khi nhà thơ viết: Thạch lựu hiện / còn phun thức đỏ (theo nghĩa là màu vẻ, dáng vẻ chứ không chỉ là màu sắc đơn thuần) thì câu thơ lại nghiêng về diễn tả trạng thái tinh thần của cảnh vật. Nguyễn Trãi giao cảm với thiên nhiên mạnh mẽ nhưng tinh tế và sâu sắc là thế.

Thiên nhiên qua cảm xúc của thi sĩ trở nên sinh động, đáng yêu và đầy sức sống. Tất cả đều có cội nguồn sâu xa là lòng thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống của tác giả. Cảnh vật thanh bình, yên vui bởi sự thanh thản đang xâm chiếm tâm hồn nhà thơ. Âm thanh “lao xao chợ cá” dội tới từ phía làng chài hay chính tác giả đang rộn rã niềm vui trước cảnh “dân giàu đủ”? Và tiếng cầm ve gắng dỏi phải chăng là khúc nhạc lòng đang được tấu lên?

Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên, nhưng trên hết vẫn là tấm lòng của ông tha thiết với con người, với dân, với nước. Như trên đã nói, thật hiếm hoi khi thấy Nguyễn Trãi có được những phút giây thanh thản. Ở đây ông có cả một “ngày trường” thưởng thức thiên nhiên với một tâm trạng lâng lâng, sảng khoái. Ức Trai tự dành cho mình quyền “Rồi hóng mát thuở ngày trường” bởi niềm mơ ước, bởi nỗi trăn trở giày vò, mục đích lớn nhất của đời ông được thực hiện: dân ấm vào hạnh phúc.

Nhìn cảnh sống của dân, đặc biệt là người lao động. Những dân chài lam lũ – được yên vui, no đủ, Nguyễn Trãi ước có được chiếc đàn của vua Thuấn để gảy khúc Nam phong ca ngợi cảnh:

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Câu kết của bài thơ là một câu sáu chữ ngắn gọn, thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài, Điểm kết tụ của hồn thơ Ức Trai không phải ở thiên nhiên, tạo vật mà chính là ở con người, ở người dân. Nguyễn Trãi mong cho dân được ấm no, hạnh phúc: “dân giàu đủ”. Nhưng đó không phải là hạnh phúc cho tất cả mọi người, mọi nơi: “khắp đòi phương”.

Thông thường mỗi khi nói tới người dân, thơ Nguyễn Trãi vẫn được một nỗi lo âu, trở trăn, dằn vặt. Bởi lẽ, với Ức Trai, “dân” là món nợ cuộc đời ông chưa trả được. Chỉ trong hai trường hợp ông nói đến dân với tất cả niềm hân hoan mãn nguyện: khi chiến thắng kẻ thù xâm lược, nhân dân được yên vui no đủ. Niềm vui của Nguyễn Trãi thể hiện trong bài thơ là thuộc trường hợp thứ hai. Với Nguyễn Trãi, vui hay buồn, lo âu hay thanh thản, tất cả đều xuất phát từ cuộc sống của nhân dân. Dù ở cung bậc và sắc thái tình cảm nào thì tấm lòng Ức Trai với nước, với dân chỉ là một:

Sách một hai phiên làm bầu bạn     
Rượu năm ba chén đổi công danh   
Ngoài chưng phận ấy cần đâu nữa?
Cầu một: ngồi coi đời thái bình.      
                                (Tự thân – Bài 10)

Bài thơ Bảo kính cảnh giới số 43 tuy thuộc nhóm thơ “Gương báu răn mình” nhưng lại giàu cảm xúc, giàu chất thơ. Biết làm sao được khi Nguyễn Trãi dùng tiếng nói của thời ông. Những từ ấy có phần nào hạn chế nhận thức và cảm xúc của chúng ta. Nhưng đó không phải là nhược điểm. Và thực ra, đọc bài thơ, chúng ta hầu như không cảm thấy sự ngăn cách bởi “hàng rào ngôn ngữ. Tiếng Việt trong thơ Nguyễn Trãi cách ta 600 năm rồi mà có câu nghe vẫn mới, vẫn hiện đại: “Lao xao chợ cá làng ngư phủ”. Vả lại, làm nên vẻ đẹp của ngôn từ, cái gốc vẫn là ở tấm lòng, ở trái tim, Lý tưởng “Dân giàu đủ khắp đòi phương” của Nguyễn Trãi với ngày hôm nay vẫn mang ý nghĩa thẩm mỹ và nhân văn.

 

Đề 21: Cảm nhận về bài Bảo kính cảnh giới (bài số 43) của Nguyễn Trãi.
Đánh giá bài viết