DÀN Ý

A. Mở bài:

– Hoàn cảnh sáng tác: năm 1969, trong cuộc chiến đấu gian khổ của những chiến sĩ lái xe đường Trường Sơn thời chống Mỹ.

– Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm chống Mỹ: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu), Phạm Tiến Duật có giọng thơ mang chất lính, khoẻ, dạt dào sức sống, tinh nghịch vui tươi, giàu suy tưởng. “Bài thơ về tiểu đội không kính” (trong chùm thơ đạt giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 19691970) được Phạm Tiến Duật viết năm 1969 là bài thơ tự do mang phong cách đó”.

B. Thân bài: (Đảm bảo những luận điểm sau) 

1. Cái độc đáo đã bộc lộ ngay từ nhan đề bài thơ.

– Hai chữ bài thơ nói lên cách khai thác hiện thực: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính, chỉ viết về hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà chủ yếu khai thác chất thơ vút lên từ hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam vượt lên những khắc nghiệt của chiến tranh.

2. Sáng tạo độc đáo nhất là hình ảnh những chiếc xe không kính:

– “Không có tính không phải vì xe không có kính”: câu thơ như một câu văn xuôi. Hình ảnh trong bài thơ sáng tạo, độc đáo, mới lạ, đậm chất hiện thực khác với với thơ ca cổ, thơ ca truyền thống.

– Hình ảnh thơ lạ:

+ Hình ảnh xe cộ, tàu thuyền đi vào trong thơ thường là được “mỹ lệ hoá”, “lãng mạn hoá” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn tả thực:

“Đùng đùng gió giục mây vần 
Một xe trong cõi hồng trần như bay”.

(Chiếc xe đưa Thuý Kiều ra đi với Mã Giám Sinh; Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Tế Hanh trong bài Quê hương tả con thuyền rất lãng mạn: 

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã 
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.

Chính Phạm Tiến Duật trong bài thơ “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” đã thể hiện cuộc sống thời chiến gian khổ mà ấm áp tình người:

Anh lên xe, trời đổ cơn mưa 
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ.

+ Hình ảnh những chiếc xe không kính là hình ảnh thực, giọng thơ thản nhiên, chất thơ rất đẹp từ hình ảnh ấy.

– Nguyên nhân: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”

– Không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe cό xước.

Khái quát hiện thực trần trụi của chiến tranh.

3. Vẻ đẹp của hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn:

– Tư thể ung dung mà hiên ngang: ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

+ Điệp từ “nhìn” như một niềm sảng khoái bất tận; “nhìn thẳng”: thể hiện sự hiên ngang của người lính.

+ Diễn tả cụ thể cảm giác của người lính lái xe: 

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng               
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim 
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim         
Như sa như ùa vào buồng lái.                    

Ấn tượng thực, qua cảm nhận của tác giả trở thành hình ảnh lãng mạn.

– Thái độ bất chấp gian khổ, hiểm nguy: 

Không có kính, ừ thì có bụi                     
Bụi phun tóc trắng như người già            
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc 
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.                

        
Không có kính, ừ thì ướt áo                     
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời            
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa          
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.            

+ “Không có kính, ừ thì…” chưa cần…” điệp khúc tạo nên giọng điệu ngang tàng, bất chấp.

+ Niềm vui, lạc quan của người lính: 

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới 
Bắt tay qua cửa kính cỡ rồi           
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời 
   Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.

“Lại đi, lại đi, trời xanh thêm”: câu thơ với năm thanh bằng và điệp ngữ lại đi tạo âm điệu thanh thản, nhẹ nhàng. Hình ảnh bầu trời xanh phơi phới một niềm lạc quan, yêu đời.

– Điều làm nên sức mạnh để người lính vượt qua khó khăn chính là tình yêu nước, là ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc:

Không có kính, rồi xe không có đèn 
Không có mui xe, thùng xe có xước, 
 Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: 
Chỉ cần trong xe có một trái tim.       

+ Nghệ thuật tương phản giữa vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên trong, giữa cái không có và cái có.

+ Sức mạnh để chiếc xe bằng mình ra trận chính là sức 

mạnh của trái tim người lính, một trái tim nồng nàn tình yêu nước và sôi trào ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

* Liên hệ thơ Tố Hữu: Tố Hữu đã ca ngợi: 

Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí          
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung 
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo.    

C. Kết bài:

– Đánh giá bài thơ, phong cách thơ Phạm Tiến Duật.

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ: Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Nhớ,… Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vinh vẻ đẹp phẩm giá con người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm lược 1945 – 1975

Đề 11: Cảm nhận về vẻ đẹp của bài thơ – Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Đánh giá bài viết