BÀI LÀM 

Sau khi bị Tú Bà, Mã Giám Sinh và Sở Khanh lừa gạt, Kiều được Thúc Sinh chuộc về làm vợ lẽ. Người vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư thấy nàng được Thúc Sinh yêu chiều bèn nổi cơn ghen, hành hạ Kiều. Kiều tủi nhục, chạy trốn và bị bọn Bạc Hạnh đẩy vào lầu xanh lần thứ hai. Ở đây, Kiều lại may mắn gặp được Từ Hải – một đấng anh hùng. Chàng cưới Kiều về làm vợ và đưa nàng lên chức vị quan tòa thể thực hiện công lí. Nàng bắt đầu thực hiện màn báo ân với Thúc Sinh và báo oán với Hoạn Thư. Đoạn trích “Kiều báo ân báo oán” thể hiện ước mơ công lý chính nghĩa: con người bị áp bức đau khổ vùng lên cầm cán cân công lí.

Cảnh Kiều báo ân báo oán là một tình huống giàu kịch tính thể | hiện ước mơ công lí ở đời. Cảnh này được kể trong một đoạn thơ dài 162 câu, Kiều báo ân cho Thúc Sinh, mụ quản gia, còn những người khiến cho cuộc đời nàng đau khổ thì nàng báo oán như Hoạn Thư, Bạc Bà, Bạc Hạnh,… Ở đây chúng ta chỉ nhắc đến hai tình tiết nổi bật là Kiều báo ân cho Thúc Sinh và báo oán Hoạn Thư. Tâm lí và cách ứng xử khéo léo của nàng được thể hiện khá đặc sắc.

Đoạn thơ chia làm hai phần, mười câu đầu là cảnh Thúy Kiều báo ân, còn những câu còn lại là Kiều báo oán. Dung lượng không đều nhau này cũng cho thấy cuộc đời nàng ân ít mà oán thì nhiều, dường như đi tới đâu cũng đã có người chờ đợi sẵn để hãm hại nàng. Tính cách các nhân vật trong đoạn trích được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại. Bằng ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã khắc họa các nhân vật của mình thật tài tình.

Thúc Sinh tuy còn nhiều điểm đáng trách, nhưng dù sao tình cảm của anh ta dành cho Kiều là thật lòng, tuy chưa bảo vệ được nàng nhưng với nàng, chàng trai họ Thúc là người đã giúp nàng rất nhiều, vì vậy người này cần được nàng báo ân. Thúc Sinh được mời đến trong cảnh oai nghiêm của nơi xử án. Tưởng mình bị xử tội, ban đầu vô cùng hoảng hốt: “Mặt như chàm để mình dường dẽ run”. Hình ảnh này rất phù hợp với tính cách và hoàn cảnh của Thúc Sinh bởi đây là một công tử chỉ biết ăn chơi. Bản tính của Thúc Sinh là hèn nhát và ích kỉ. Thúc Sinh chỉ thích Kiều, muốn lấy Kiều làm của riêng. Anh ta chỉ biết đến Kiều lúc vui, còn khi Kiều gặp nạn thì bộ mặt hèn nhát ấy mới bộc lộ, không dám đứng ra bênh vực nàng. Tuy nhiên, đối với Kiều, Thúc Sinh lại là người đáng được báo ân vì anh ta đã cứu nàng ra khỏi lầu xanh và lấy về làm vợ. It nhiều Kiều cũng đã có những ngày tháng được sống cuộc sống êm đềm dù ngắn ngủi trước khi Hoạn Thư nổi cơn ghen. Lời nói của Kiều chứng tỏ nàng thực sự trân trọng hành động nghĩa hiệp mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trong cơn hoạn nạn.

Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng, 
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?” 

Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng ngôn ngữ trau chuốt và sử dụng cả những điển cố, điển tích trong văn chương. Cách nói ấy phù hợp với thư sinh họ Thúc và diễn tả được thái độ trân trọng của Kiều đối với chàng. Cách ứng xử của Kiều hết sức tế nhị. Nàng gọi Thúc Sinh đến để trả nghĩa. Kiều tự xưng là “người cũ” và gọi Thúc Sinh là “cố nhân” Lúc này, nàng đã là vợ của Từ Hải nên Thúc Sinh chỉ là người quen cũ của nàng mà thôi. Cách sử dụng các từ “nghĩa”, “người cũ”, “Sâm Thương” “cố nhân” rất tế nhị, vừa diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Kiều, làm mát mặt Thúc Sinh lại đẹp mặt Từ Hải. Thông qua cách ứng xử của nàng có thể thấy trái tim Kiều rất nhân tình, nhân hậu, cách ứng xử của nàng với Thúc Sinh là ân nghĩa thủy chung. Cái lễ mà Kiều báo ơn Thúc Sinh cũng thật “hậu”, khẳng định cái nghĩa trong những năm tháng Lâm Trị là vô cùng sâu nặng:

Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân, 
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.

Cái lễ trả ơn này chỉ là vật tượng trưng gọi là mà thôi. Còn ân nghĩa giữa người với người không thể nói trả là trả được ngay. Điều này còn chứng tỏ Kiều là người trọng nghĩa. Sau đó, Kiều dùng lời lẽ dân dã, sắc sảo để nói về “vợ chàng”, cách nói rất phù hợp với logic tâm lí của Kiều. Vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho nàng vẫn còn nhức nhối, như mới chỉ xảy ra hôm qua. Hơn nữa lúc này, Kiều muốn nhắc Thúc Sinh lúc này mọi chuyện phải được rõ ràng, có ơn thì phải đền, có nợ thì phải trả, ân oán phân minh. Vết thương mà Hoạn Thư gây ra không chỉ đau đớn về thể xác mà còn đau hơn gấp bội về tinh thần. Hoạn Thư phải trả nỗi oán đó cho Kiều trước mặt tất cả mọi người, phải được mọi người công nhận. Lúc này Kiều đang ở vị trí khác hẳn so với trước kia, nên nàng có quyền đứng lên đòi công bằng cho chính mình. Cảnh đối đáp giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư là một màn kịch ngắn nhưng có đầy đủ nhân vật, lời đối thoại và cả những kịch tính, căng thẳng:

Thoắt trông nàng đã chào thưa: 
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay, 
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều. 

Khác với cách nói trang trọng ở trên, lúc này ngôn ngữ của Kiều rất nôm na, bình dị. Ở trên thì dùng các thành ngữ quen thuộc, dễ hiểu: “quỷ quái tinh ma”, “kẻ cắp bà già”,… làm cho việc trừng phạt có sắc thái cụ thể. Hành động trừng phạt cái ác của Thúy Kiều theo đúng quan điểm công lí của nhân dân nên nó phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân. Hoạn Thư từ địa vị tiểu thư, vợ cả trở thành bị cáo phải đứng trước quan tòa. Kiều cũng đã dùng cách nói mỉa mai giống như trước kia Hoạn Thư đã làm với mình để đáp trả cho ả. Cách xưng hô trong hoàn cảnh thay bậc đổi ngôi chính là một đòn đánh mạnh vào tinh thần của Hoạn Thư, làm cô ta choáng váng. Giọng điệu của Thúy Kiều cho thấy nàng quyết trừng trị Hoạn Thư cho hả giận. Lúc đầu, Hoạn Thư cũng hồn lạc phách xiêu, nhưng với bản chất khôn ngoan, lọc lõi vốn có, ngay trong hoàn cảnh ấy cô vẫn đủ bình tĩnh để liệu điều kêu ca. Cả đoạn điều luận tội Hoạn Thư cứ như băm, như bổ, đe dọa một cuộc trừng phạt đích đáng cho người phụ nữ ấy. Trước lời buộc tội ấy, Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình:

Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. 

Hoạn Thư thật khôn khéo khi đưa ra cái cớ mà không ai có thể chối cãi được, bởi Kiều cũng là đàn bà, chắc chắn khi yêu Kiều cũng sẽ ghen. Tất cả mọi tội lỗi của Hoạn Thư đổ cho hai từ “ghen tuông”. Có lẽ ghen là nguyên nhân dẫn đến những hàng động của cô đối với nàng. Đây là cách đánh vào tâm lí của đối phương. Thế là Hoạn Thư khéo léo kéo Kiều từ ghế của quan tòa xuống phận đàn bà với ả. Ở đây chỉ còn những câu chuyện của những người đàn bà. Được đà lấn tới, Hoạn Thư bắt đầu kể công của ả đối với Kiều. Đó là ả đã cho Kiều ra chép kinh ở Quan Âm các và không bắt giữ Kiều khi nàng bỏ trốn, mang theo cả chuông vàng, khánh bạc chỉ là muốn cắt đứt mối quan hệ giữa Thúc và Kiều:

Lòng riêng riêng những kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai. 

Từ một tội nhân, Hoạn Thư đã ranh mãnh hóa giải tất cả để trở thành nạn nhân của chế độ đa thê. Hoạn Thư không dừng lại ở đó mà ả cao tay hơn, nhận hết tội lỗi về mình và trả kiều ghế quan tòa để xin Kiều rộng lòng tha tội. Hoạn Thư đã đánh trúng vào chỗ mạnh cũng là chỗ yếu của Kiều – ấy là lòng khoan dung, độ lượng của nàng. Lời gỡ tội của Hoạn Thư vừa có lí, vừa có tình, lời cầu xin đúng mực, chân thành. Vì thế, Kiều phải thừa nhận Hoạn Thư là người khôn ngoan: “Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời” Người lâm vào tình thế khó xử lúc này lại chính là Kiều, nàng không biết xử sao cho đúng lẽ phải. Cuối cùng, Kiều đã tha tội cho Hoạn Thư:

Đã lòng tri qua thì nên 
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.

Kiều đã nghiêm khắc răn đe Hoạn Thư rồi lại tha tội cho ả. Sự việc diễn ra quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của nhiều người. Vốn là một phụ nữ thiện lương, từng nếm trải bao cay đắng và ngang trái trong cuộc đời, vả lại Kiều cũng tự biết rằng mình đã xâm phạm đến hạnh phúc của người khác. Tha tội cho Hoạn Thư, Kiều lại càng tỏ ra cao thượng hơn bao giờ hết. Cách xử lí này là hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh và tính cách của các nhân vật. Trong khi hành hạ Kiều, Hoạn Thư đã nhiều lần phục tài của Kiều mà nương nhẹ tay đối với Kiều. Hoạn Thư lại là vợ của Thúc Sinh, Thúy Kiều có ơn nghĩa với Thúc Sinh nên không nỡ trừng phạt Hoạn Thư. Qua trải nghiệm cuộc đời, Kiều là người chịu nhiều đau . khổ và thấu hiểu nỗi đau của người khác.

Bằng cách để cho các sự việc tự vận động, nhân vật tự bộc lộ mình qua những lời đối thoại, Nguyễn Du đã đưa nghệ thuật miêu tả nhân vật của văn học tiến lên một bước rất dài. Đoạn trích đã thể hiện ước mơ công lí chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du. Đoạn thơ cũng cho ta bài học đắt giá về cách hành xử giữa người với người. Hoạn Thư và Kiều đều là nạn nhân của chế độ phong kiến đa thê. Khi nào xã hội được công bằng thì con người mới được hạnh phúc thực sự.

Nguồn website giaibai5s.com

Bài 20: Phân tích đoạn trích “Kiều báo ân báo oán” trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du
Đánh giá bài viết