Bài tham khảo

   Núi Côn Sơn trên đất huyện Chí Linh, suốt một trăm năm mươi năm từ khi Trần Nhân Tông khai sáng dòng Thiền Trúc Lâm (1299) cho đến khi Nguyễn Trãi quy thần (1442) đã là một trung tâm tư tưởng của Việt Nam đối diện với Thăng Long, cả hai gắn liền trong đạo xuất xứ của người hiền thời xưa. Nếu kinh đô Thăng Long là trung tâm quyền lực giải quyết yêu cầu dấn thân của kẻ sĩ thì Côn Sơn là nơi họ tìm về căn nhà vũ trụ để thực hiện cuộc sống tâm linh trong bản giao hưởng của trời đất. Chẳng những Trần Nhân Tông, Huyền Quang, Trần Nguyên Đán, Chu Văn An, Nguyễn Trãi… đã tìm về đây để sống đạo suốt phần cuối cuộc hành trình cát bụi, mà nhiều trí thức Trần – Lê dù đang gánh vác triều chính, thỉnh thoảng cũng lén vào Côn Sơn để ăn trộm cái nhàn trong cửa này, theo cách nói của Nguyễn Phi Khanh.

   Côn Sơn nhìn nghiêng giống hình một con kì lân từ Tây Tạng đi về phương Nam, tới nằm trầm mặc giữa châu thổ sông Hồng. Chân núi có ngôi chùa cổ với mấy tấm bia đá đề năm Thiệu Phong đời Trần, và những cây sứ già lão cổ quái bậc nhất, khiến tôi nhìn lên phải nghiêng mình với chào. Tên dân gian gọi là chùa Hun, vì từ xa xưa lâu đời, nơi đây vẫn là rừng sâu hoang rậm. Côn Sơn quanh năm chìm trong màu khói xanh của thợ rừng đốt than. Thời lỡ vận, người anh hùng đánh Nguyên là Trần Khánh Dư cũng lên nguồn đốt than, truyền thuyết còn lưu lại bài thơ nổi tiếng: Ở với lửa hương cho bạn kiếp, Thử xem vàng đá có bền gan

Lưng chừng núi là khu di tích của động Thanh Hư, cạnh núi Côn Sơn. Trần Nguyên Đán, nhà thiên văn và lịch pháp tài giỏi của thế kỉ XIV, vì buồn việc nước, lại nghĩ rằng “Tự sát để được tiếng khen như Khuất Nguyên là sai”, bèn về núi dựng khu trang viên này. Nguyễn Phi Khanh tả động Thanh Hư quy mô rộng lớn, cảnh quan rực rỡ, thơm đến muốn nuốt, xinh đến muốn ăn. Nay lác đác trên sườn núi vẫn còn dấu đá ong của những nền nhà cũ, nơi Trần Nguyên Đán viết sách và dạy học, người học trò vỡ lòng đồng thời là cháu ngoại của ông chính là Nguyễn Trãi. Nay vẫn còn tấm bia đá lớn đề ba chữ “Thanh Hư Động”, bút tích của vua Trần Nghệ Tông, cùng với mây cầu của nhà vua ngợi ca tấm lòng mải lo nước thương dân Nguyên Đán dù đã lui về núi: Núp dưới bóng cây là muốn mở rộng sức che chở cho dân, Tựa vào khóm trúc là muốn đến với nhiều người hiền.

   Suối Côn Sơn mùa xuân nước vẫn còn đây, bờ suối còn những dấu đại bác thời chống Pháp. Ven suối dưới chân động Thanh Hư có bãi đá bằng phẳng gọi là thạch bàn: Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm. Đúng như trong thơ ông, thạch bàn là nơi Nguyễn Trãi thường ngồi lặng lẽ ngắm bầu trời. Có lẽ những tháng ngày hội nhập vào cuộc sống lớn lao của một “công dân vũ trụ”, cái ý niệm thiên dân kia đã nuôi dưỡng sâu bền thêm trong tâm thức Nguyễn Trãi nỗi khát khao lẽ công bằng và tự do cho con người, vốn là bản chất dân chủ nhất quán trong lí tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi: Lồng lộng trời tư chút đâu, Nào ai chẳng đội ở trên đầu. Hiện nay, rêu thạch bàn ở Côn Sơn vẫn sáng lên một màu lục tươi mới mẻ lạ lùng, tưởng như người hiền vừa mới đứng dậy khỏi nơi này, đang lang thang một mình đâu đó trong rừng thông.

                                                    (Nguyễn Lê Ly Na)

Nguồn website giaibai5s.com

Trả lời câu hỏi và giải bài tập Ngữ Văn 8-Bài 22.Chương trình địa phương (Tập làm văn)
Đánh giá bài viết