I. TRẢ LỜI CÂU HỎI

Câu 1. Căn cứ vào nội dung, ta có thể chia bài Hịch tướng sĩ thành 5 phần:

1. Ta thường nghe… đến nay còn lưu hai tiếng tốt: Nêu gương các trung thần nghĩa sĩ đã xả thân cứu nước, cứu chúa (trong Bắc sử) để kích thích tinh thần trung dũng của tướng sĩ.

2. Huống chi ta cùng các ngươi … ta cũng vui lòng: Lòng căm thù sôi sục ” và tinh thần quyết chiến của vị thống soái trước tội ác và dã tâm xâm lược của giặc Mông Cổ.

3. Các ngươi ở cùng ta… Cốt Đãi Ngột Lang ngày trước cũng chẳng kém gì: Nhắc lại những ân nghĩa sâu nặng giữa chủ soái với các tướng sĩ; phê phán tư tưởng cầu an hưởng lạc, mất cảnh giác của các tướng sĩ, nghiêm khắc chỉ ra con đường bại vong đau đớn nhục nhã.

4. Nay các ngươi nhìn chủ nhục… dầu các người không muốn vui vẻ phỏng có được không?: Xác định tinh thần, thái độ sẵn sàng chiến đấu, cho các tướng sĩ khi Tổ quốc lâm nguy, chỉ ra viễn cảnh huy hoàng thắng trận: có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cao Nhai.

5. Nay ta chọn binh pháp các nhà … để các ngươi biết bụng ta: Nêu yêu cầu cụ thể cho các tướng sĩ, đó là hãy ra sức học tập binh thư để giữa trọn đạo thân chủ; nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ “khinh bỏ” sách “Binh thư yếu lược”; xem chúng là nghịch thù.

Câu 2. Đoạn văn tố cáo tội ác của giặc được lột tả một cách rất căm uất, khơi gợi trong lòng các tướng sĩ nỗi nhục mất nước.

– Vạch trần bản chất của giặc bằng lời lẽ ẩn dụ cụ thể, sinh động, coi chúng như loài cầm thú: cú diều, dê có, hổ đói.

– Lên án thái độ, hành vi khinh mạn, hống hách, ngạo ngược, lòng tham khôn cùng của giặc qua những từ ngữ giàu hình ảnh đặc tả: đi lại nghênh ngang, uốn lưỡi cú diều, si măng triều đình, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng, nuôi hổ đói…

   Trần Quốc Tuấn đã thấu suốt dã tâm của quân giặc, nhận thức rõ hiểm họa đối với Tổ quốc, nguy cơ của sự bại vong. Đoạn văn không những tiêu biểu cho lòng căm thù giặc mà còn khơi gợi nỗi nhục mất nước để tướng sĩ phải suy nghĩ,

Câu 3. Phân tích lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn qua … đoạn văn tác giả tự nói lên nỗi lòng mình:

   Đoạn văn này lại tiêu biểu nhất cho tình cảm cao đẹp, hình tượng cái “tôi” trữ tình yêu nước vĩ đại của Trần Quốc Tuấn. Đoạn văn có hai ý lớn:

– Trạng thái căm uất, sục sôi, hận thù bỏng rát của một trái tim vĩ đại, chất chứa cảm xúc lớn đối với vận mệnh đất nước, sự tồn vong vương triều, . thân danh tướng soái, số phận tướng sĩ, nhân dân. Văn phong giản dị, chân chất, từ ngữ giàu cảm xúc và sắc thái biểu hiện: tới bữa quên ăn, nửa đêm Uỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa.

– Ý chí xả thân cứu nước. Từ trái tim vĩ đại sục sôi nhiệt huyết, đến ý chí quả quyết muốn hành động, hi sinh cứu nước là một phát triển phù hợp với chuyển biến tâm tư, tính cách của người anh hùng. Sự phát triển của cái “tôi” trữ tình yêu nước, gói gọn trong những ngôn từ: Chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da… Dẫu trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, có cảm tưởng hơi ước lệ, to tát, ồn ã, nhưng thống thiết, hào sảng, phù hợp với ngôn từ, hùng biện của thể hịch văn, vì thế vẫn có sức ngan vang.

   Từ lòng căm thù cháy bỏng, hành động giết giặc cứu nước là tất yếu và phải được đặt lên hàng đầu, thà chết chứ không chịu lùi, Trần Quốc Tuấn – vị chủ soái – lại tiêu biểu cho khí phách anh hùng của dân tộc.

Câu 4. Sau khi nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định hành động đúng có tác dụng làm cho các tướng sĩ phải suy nghĩ.

   Đoạn văn có rất nhiều chi tiết vạch rõ những sai lầm của các tướng sĩ. Những điều tác giả phê phán là:

– Sự bàng quan, thờ ơ:

Chủ nhục – không biết lo

Nước nhục – không biết thẹn

Hầu quân giặc – không biết tức

Nghe nhạc thái thường để đãi yến ngụy sử (bị sỉ nhục) – không biết cảm.

– Sự ăn chơi nhàn rỗi: chọi gà, đánh bạc, săn bắn, uống rượu, nghe hát.

– Sự vun vén cá nhân: vui thú vườn ruộng, quyến luyến vợ con, lo làm giàu.

   Cách phê phán của tác giả rất nghiêm khắc. Tác giả đã nêu lên những gì nghiêm trọng nhất để phê phán trước, sau đó không bỏ qua bất kì một biểu hiện nào của sự lơ là, mất cảnh giác, ăn chơi, hưởng lạc. Đoạn văn trình bày theo lối liệt kê, đối lập, với một loạt các câu hỏi nghi vấn nhưng mang ý khẳng định “không thể”.

        Cựa gà trống > < đâm thủng áo giáp của giặc. 

        Mẹo cờ bạc > < làm mưu lược nhà binh.

        Nhiều của cải > < mua thân quý ngàn vàng.

        Tiền của > < mua đầu giặc.

        Chó săn > < đuổi được giặc.

        Rượu ngon > < làm giặc say chết.

        Tiếng hát hay > < làm giặc điếc tai.

   Việc sử dụng điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu làm cho lời phân tích càng thêm mạnh mẽ, giàu sức thuyết phục.

   Để phê phán các tướng lĩnh một cách thấm thía, tác giả đã tập trung vào sự sống, còn, chỉ ra nỗi nhục khi mất nước, đó là:

        + Bị bắt làm tù binh.

        + Gia quyến bị đuổi, bị bắt.

        + Mất thái ấp, bổng lộc.

        + Tổ tông bị giày xéo, phần mộ cha mẹ bị quật lên.

        + Nhịn nhục kiếp này và muôn đời.

   Cấu trúc “chẳng những … mà” được lặp lại trong suốt đoạn văn để nhấn mạnh mất mát và tổn thất. Mặt khác luôn luôn có hai vế về chủ tướng và quân sĩ gắn liền với nhau trong mọi trường hợp, cho nên việc phê phán không chỉ xuất phát từ quyền lợi của từng tướng sĩ. Do đó có tính chất thuyết phục mạnh hơn, cho dù việc phê phán hết sức nghiêm khắc và mạnh mē.

Câu 5. Giọng văn vừa là lời chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền, vừa là người cùng cảnh ngộ trước sự mất, còn đối với vận mệnh của đất nước.

   Đây cũng vừa là lời khuyên răn, bày tỏ thiệt hơn vừa là lời nghiêm khắc cảnh cáo thái độ bàng quan, không chỉ là tội thờ ơ nông cạn mà còn là vong ân bội nghĩa trước mối ân tình đối với chủ tướng.

   Cách viết của tác giả có tác động rất mạnh đối với tướng sĩ. Tác giả đã sử dụng phương pháp so sánh, tương phản phù hợp với quy luật nhận thức các điệp ý, điệp ngữ tăng tiến có tác dụng nêu bật vấn đề từ nông đến sâu, từ nhận biết đến suy nghĩ, cảnh giác, hành động. Vì vậy tác giả đã cho người nghe thấy rõ và nhận ra điều phải, trái.

Câu 6. Đặc sắc nghệ thuật trong bài lịch:

   Để diễn đạt một nội dung vừa có tính cách thuyết phục, vừa có tính cách phê phán, tác giả đã lập luận rất chặt chẽ như chúng ta đã thấy ở p cấu và bố cục – lời lẽ có tình, có lí, khi thì thiết tha, khi thì đanh thép, chuyển từ đầu đến cuối một cách lôgíc

   Để phân rõ lẽ phải – trái, chính – tà, tác giả đi từ xa đến gần, từ vấn đề chung đến vấn đề cụ thể trước mắt. Mở đầu, tác giả dẫn chứng trong sử sách đời xưa để nói khả năng của tướng sĩ đời nay, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Tác giả chuyển xuống phân tích nỗi giặc tàn ác như thế nào, nỗi mình thâm giao như thế nào, tiếp đó tác giả vạch ra hai viễn cảnh trái ngược nhau, rồi kết thúc bằng lời kêu gọi đanh thép; hoặc theo ta, hoặc theo giặc, hoặc là bạn, hoặc là thù, hoặc là danh thơm muôn thuở, hoặc là tiếng xấu nghìn thu. Phương pháp tương phản, đi đôi với lối văn biền ngẫu trong bài này thật là “đắc dụng”.

   Ở đây chẳng những ý từng đoạn đối nhau, mà ý từng câu đối nhau, từng chữ đối nhau. Chúng ta đọc đến đâu là lẽ phải – trái nổi bật đến đấy; “Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức, Nghe nhạc thái thường đãi yến nguy sứ mà không biết căm…”. . .

   Rõ ràng, chữ đập nhau, đối nhau chan chát, ai là người không nhận rõ chính – tà?

   Tác giả lại biết phối hợp phương pháp điệp ngữ, điệp ý để làm tăng thêm tính thiết tha, tính bi tráng của câu văn. Để đập vào tư tưởng an hưởng thái bình trong tướng sĩ lúc đó, tác giả viết: hoặc lấy việc chọi gà làm Qui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc… hoặc…”. Tác giả nêu lên hình tượng cựa gà trống bên áo giáp, mẹo cờ bạc bên quân mưu. Sự vật có vẻ hài hước, nhưng ý nghĩa thật nghiêm trang. Bằng phương pháp tương phản kết hợp phương pháp so sánh, tác giả nêu ra hai viễn cảnh:

Viễn cảnh u ám Viễn cảnh tươi đẹp
Thái ấp của ta:
Không còn + cũng mất
Bổng lộc các ngươi: 
Mãi mãi vững bền + đời đời hưởng thụ
Gia quyến của ta:
Bị tan + cũng khốn
Vợ con các ngươi: 
Yên ấm gối chăn + Bách niên giai lão
Xã tắc tổ tông của ta:
Bị giày xéo + bị quật lên
Mồ mả cha mẹ các ngươi:
Muôn đời tế lễ + Thờ cúng quanh năm

   Để làm tăng thêm tính quan trọng của vấn đề, tác giả nhắc lại ý nghĩa đối với quần chúng nhân dân lúc bấy giờ và sự thanh nghị của người đời sau trong sử sách. Sau đó tác giả đặt một mệnh đề nghi vấn nhưng lại rất khẳng định:

   Trong cảnh u ám: “Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không?”, trong cảnh huy hoàng: “Lúc bấy giờ, dẫu các người không muốn vui chơi phỏng có được không?”

   Đây là một đoạn văn hùng biện tài tình, khích lệ cao độ lòng căm thù, chí phấn đấu. Nhà văn Đặng Thai Mai có nhận xét về đoạn văn này: “Văn thể đoạn này, lời lẽ một bài thuyết pháp. Đập từng chữ, dằn từng câu, Hưng Đạo Vương đánh mạnh vào tình cảm tu ố của bộ hạ, để cho họ biết chán, biết ghét, biết khinh bỉ cái đời hưởng thụ và vô ích của bọn tín đồ chủ nghĩa khoái lạc”. 

   Đặc điểm bài văn này còn ở chỗ tác giả biết cấu tạo hình tượng sinh động, sử dụng lời văn thích đáng. Để nêu những hi sinh trong sử sách, tác giả nêu lên những hình tượng “đem mình chết thay”, “chìa lưng chịu giáo”, “nuốt than”, “chặt tay”… Đối với giặc, tác giả dùng những hình tượng “uốn lưỡi cú diều”, “đem thân dê chó”. Chỉ mấy chữ đó cũng nói lên bản chất của giặc là xào huyệt và hèn hạ. Như vậy lòng căm thù mới đến độ: bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Hình tượng “bêu đầu”, “làm rữa thịt” nói lên được cái uất hận trào lên của mọi người, của tướng sĩ và của chính bản thân Trần Quốc Tuấn… Những hình tượng “quên ăn”, “vỗ gối”, “ruột đau”, “nước mắt đầm đìa” chứa đựng một tấm lòng của tác giả. “Xả thịt lột da, uống máu quân thù” tám chữ nhưng chỉ một tấm lòng yêu nước, chí căm thù vào tim gan tướng sĩ, có tác dụng đánh bại tư tưởng an hưởng thái bình trong đầu óc tướng sĩ.

   Để làm nổi bật các hình tượng, tác giả chú ý sử dụng lời văn. Ngoài cách chọn chữ, chọn lời của tác giả rất thích đáng, để cách sử dụng tiếng đưa đẩy (hư từ) rất tài tình. Chẳng hạn: “..chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các người cũng mất…”. Những từ “chẳng những”, “mà” được lặp lại nhiều lần, làm tăng vẻ thiết tha, bi tráng, hùng biện của bài văn. Có khi chỉ là một ý (như ở đoạn trên đả phá tư tưởng hưởng lạc…), nhưng tác giả chú hết sức chú ý diễn xuôi đảo ngược, nói đi nói lại, lời lẽ tình ý, thấm từng giọt vào đường gân thớ thịt, vào kẽ tóc chân tơ… Trần Quốc Tuấn đã có một ưu điểm nổi bật: Bộc lộ lòng mình, lòng yêu non sông đất nước thắm thiết của mình, và từ đó lời nói tâm can của ông mới thấm lòng người, lòng tướng sĩ và khích lệ được lòng yêu nước của mọi người, của tướng sĩ. Giá trị thuyết phục của bài hịch chính là ở chỗ đã kết hợp ở mức độ cao hai yếu tố tình cảm và lí trí.

Câu 7. Lược đồ kết cấu của bài hịch:

   Hịch tướng sĩ nêu lên nhiều vấn đề để tập trung vào một hướng, đó là khích lệ lòng yêu nước bất khuất, quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược, bằng cách khái quát nghệ thuật lập luận.

+ Khích lệ từ ý chí lập công danh,

+ Lòng tự trọng cá nhân, tự tôn dân tộc đến lòng căm thù giặc,

+ Tinh thần trung nhân ái quốc, nghĩa tình cốt nhục.

* Có thể thấy được cách triển khai lập luận của bài hịch qua lược đồ kết cấu như sau:

Nguồn website giaibai5s.com

Trả lời câu hỏi và giải bài tập Ngữ Văn 8-Bài 23.Hịch tướng sĩ
Đánh giá bài viết