I. Tác giả – tác phẩm

1. Tác giả: Hồ Xuân Hương (chưa rõ năm sinh, năm mất) người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Từ nhỏ bà đã sống ở Thăng Long. Bà có một ngôi nhà riêng ở Hồ Tây (Hà Nội) lấy tên là Cổ Nguyệt Đường, đây là nơi gặp gỡ, giao lưu của nhiều văn nhân tài tử lúc bấy giờ.

   Hồ Xuân Hương đi nhiều, quen biết nhiều người, có người là danh nhân nổi tiếng như Nguyễn Du. Là một thi sĩ tài danh nhưng cuộc đời, nhất là đường tình duyên của Hồ Xuân Hương gặp nhiều éo le, ngang trái. Điều này có ảnh hưởng đến các sáng tác của llồ Xuân Hương.

   Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là một hiện tượng rất độc đáo. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ viết về phụ nữ, viết về đề tài trào phúng nhưng đậm chất trữ tình, đậm chất văn học dân gian. Thơ Hồ Xuân Hương rất dân tộc mà cũng rất hiện đại. Nổi bật trong các sáng tác thơ Nôm của Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp cũng như khát vọng của họ.

2. Tác phẩm

   Tự tình (bài II) nằm trong chùm thơ Tự tình gồm ba bài của Hồ Xuân Hương. Bài thơ thể hiện hai tâm trạng tưởng chừng như trái ngược nhau, nhưng thực chất nó hoàn toàn thống nhất như bản lĩnh và tính cách của Hồ Xuân Hương: vừa buồn tủi, vừa phẫn uất muốn vượt lên trên số phận nhưng cuối cùng vẫn đọng lại trong nỗi xót xa. Bài thơ là một bi kịch, cũng là một khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ nhiều truân chuyên.

   Tự tình cũng thể hiện tài năng sáng tác của Hồ Xuân Hương qua việc sử dụng những từ ngữ giàu giá trị tạo hình, giàu sức biểu cảm; qua cách xây dựng hình ảnh, sử dụng tiết tấu câu thơ, sử dụng các biện pháp nghệ thuật để diễn tả cảm xúc, tâm trạng.

II. Tìm hiểu tác phẩm

1. Tâm trạng và hoàn cảnh của tác giả trong bốn câu thơ đầu

   Thời gian bao giờ cũng được thể hiện trong sự nghịch đối với cuộc sống của con người, đặc biệt là tuổi trẻ và tình yêu. Với Hồ Xuân Hương, nhà thơ đầy nữ tính thì yếu tố về thời gian càng sâu sắc hơn. Bài thơ Tự tình (bài II) được mở đầu bằng thời gian: Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn và kết thúc cũng bằng thời gian: Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại – Mảnh tình san sẻ tí con con. Bốn câu thơ đầu đã nêu bật được hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ. 

   Thời gian được thể hiện qua câu một với âm thanh văng vẳng trống canh dồn. Âm thanh văng vẳng không chỉ đơn thuần là sự cảm nhận âm thanh bằng thính giác mà còn là sự cảm nhận về sự trôi đi của thời gian – thời gian vô thủy, vô chung nhưng thời gian còn chứa đựng sự phá hủy. Trong Tự tình (bài 1), âm thanh của tiếng gà gáy đã gợi sự não lòng (Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom) thì trong Tự tình (bài II), cái nhịp điệu gấp gáp, liên hồi của tiếng trống vừa là sự cảm nhận, vừa là sự thể hiện bước đi của thời gian và sự rối bời của tâm trạng.

   Từ trơ được đặt ở đầu câu với nghệ thuật đảo ngữ vừa nói được bản lĩnh nhưng lại cũng thể hiện được nỗi đau của nhà thơ. Trơ là tủi hổ, là bẽ bàng. Nhưng trơ với Hồ Xuân Hương còn là sự thách thức. Điều này hoàn toàn giống với cái trợ của Bà Huyện Thanh Quan: Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt (Thăng Long thành hoài cổ). .

   Hồng nhan: cách nói về người phụ nữ nhưng đi liền với cái, gợi lên sự rẻ rúng, mỉa mai.

   Chén rượu hương đưa say lại tỉnh: Câu thơ gợi lên cái vòng luẩn quẩn, như là sự cảm nhận duyên tình đã trở thành trò đùa của tạo hóa. Hương rượu và hương tình đi qua chỉ để lại vị đắng chát, khổ đau cho tác giả.

   Hình ảnh Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn là hình tượng chứa hai lần bi kịch: trăng sắp tàn (bóng xế) mà vẫn khuyết chưa tròn. Đó là sự tương đồng với thân phận của người phụ nữ. Câu thơ tả ngoại cảnh nhưng chứa đựng nội tâm của tác giả, tạo nên sự thống nhất giữa trăng và người.

2. Tâm trạng và thái độ của nhà thơ qua hình tượng thiên nhiên trong câu 5 và 6

   Thiên nhiên trong hai câu thơ 5 và 6 như cũng mang theo nỗi niềm phẫn uất của con người. Rêu là một sinh vật nhỏ yêu, hèn mọn nhưng cũng không chịu khuất phục, mềm yếu; nó phải xiên ngang mặt đất. Đá vốn rắn . chắc nhưng giờ cũng nhọn hơn để đâm toạc chân mây.

   Nhà thơ sử dụng biện pháp đảo ngữ để làm nổi bật tâm trạng phẫn uất của thiên nhiên mà cũng là sự phẫn uất của con người. Các động từ mạnh như xiên, đâm kết hợp với các bổ ngữ như ngang, toạc thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh của thi sĩ. Chính biện pháp đối lập và đảo ngữ, cách dùng các từ ngữ tạo hình đó đã tạo nên ấn tượng lạnh lẽ, làm nên cá tính sáng tạo của Hồ Xuân Hương. Đó cũng là cách nhiêu tả sáng tạo về thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương: bao giờ cũng chuyển động, căng đầy sức sống ngay cả trong những tình huống bi thảm nhất.

3. Tâm sự của tác giả qua hai câu kết

   Hai câu kết nói lên tâm trạng chán chường, buồn tủi của nhà thơ. Ngán là chán ngán, ngán ngẩm. Xuân đi xuân lại lại chính là cái vòng luẩn quẩn của tạo hóa. Xuân vừa là mùa xuân, tức là thời gian nhưng cũng chính là tuổi trẻ. Sự trở lại của mùa xuân cũng đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi trẻ.

   Từ lại thứ nhất có nghĩa là thêm một lần nữa, từ lại thứ hai là sự trở lại. Vì vậy, hai từ lại giống nhau về âm nhưng khác nhau về nghĩa, về cấp độ nghĩa.

   Câu cuối Mảnh tình – san sẻ – tí – con con sử dụng nghệ thuật tăng tiến. Đây không phải là khối tình (khối tình cọ mãi mới non sông) mà là mảnh tình, tức là hết sức bé nhỏ. Mảnh tình bé nhỏ lại đem san sẻ để chỉ còn tí con con. Đó là tâm trạng của kẻ làm lẽ nhưng cũng là nỗi lòng của người phụ nữ. trong xã hội xưa, khi hạnh phúc với họ luôn là điều gì không đầy đủ.

4. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương 

   Bài thơ là bi kịch duyên phận (bi kịch ấy được thể hiện trong cảm thức về thời gian trong bốn câu thơ đầu) và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc (thể hiện trong bốn câu thơ cuối). Bi kịch duyên phận được thể hiện qua cách nghịch đối: duyên phận muộn màng, lỡ dở trong khi thời gian cứ lạnh lùng trôi đi (hai câu đầu). Sự nghịch đối này dẫn đến tâm trạng buồn tủi, phẫn uất nhưng ở đó vẫn tiềm ẩn khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc. Khát vọng ấy được thể hiện rõ trong hai câu thơ 5 và 6.

5. Giá trị của bài thơ

   Cấu tạo của thơ Nôm Đường luật và sự vận dụng sáng tạo những từ ngữ mang tính biểu cảm cao.

   Nỗi lòng của Hồ Xuân Hương được thể hiện trong bài thơ: buồn đau, phẫn uất nhưng vẫn cháy lên khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc. Đó chính là vẻ đẹp của nhà thơ, cũng chính là của con người nhà thơ.

III. Luyện tập

   Sự giống nhau và khác nhau trong hai bài thơ Tự tình (I và II) của Hồ Xuân Hương

Giống nhau:

   Cùng sử dụng thơ Nôm Đường luật để thể hiện cảm xúc của tác giả.

   Đều mượn cảm thức về thời gian để thể hiện tâm trạng. Điều đó được thể hiện qua kết cấu vòng tròn của hai bài thơ: mở đầu bằng thời gian và kết thúc cũng là thời gian.

   Đều sử dụng nhiều từ ngữ biểu cảm: văng vẳng, trơ, cái hồng nhan, ngán, tí cot con, oán hận, rền rĩ, mõm mòm, già ton...

Khác nhau:

   Cảm xúc trong Tự tình I là nỗi niềm của nhà thơ trước duyên phận hẩm hiu, nhiều mất mát, trước lẽ đời đầy nghịch cảnh, đồng thời là sự vươn lên của chính bản thân, thách đố lại duyên phận. Còn ở Tự tình II, cũng là sự thể hiện của bi kịch duyên phận muộn màng, cố gắng vươn lên nhưng cuối cùng cũng không thoát được bi kịch. Chính vì thế bi kịch như được nhân lên, phẫn uất hơn. Sự khác nhau đó chính là do cảm xúc chủ đạo trong từng bài thơ.

Nguồn website giaibai5s.com

Học tốt Ngữ Văn 11-Bài 2. Tự tình
Đánh giá bài viết