Đề 59 – Nhận định về nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong Truyện Kiều, có ý kiến cho rằng: “Có thể nói ở văn học trung đại không có một nhà thơ thứ hai nào thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật như Nguyễn Du, nhất là nội tâm nhân vật Thúy Kiều” Hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua hai đoạn trích “Trao duyên” và “Những nỗi lòng tê tái”.

BÀI LÀM

Trong văn học trung đại, hầu như tác phẩm nào cũng mang những nỗi lòng u uất, những tâm trạng thổn thức đến bất an. Việc miêu tả nội tâm nhân vật chính là hơi thở, giá trị của tác phẩm, là hiện thực của cuộc sống và của xã hội, là những trắc ẩn dường như đến mênh mông… Mỗi một tác giả có một cách khác nhau để xây dựng thế giới nội tâm ấy, nhưng hãy dừng lại một chút ở “Truyện Kiều”, lắng nghe tiếng nói tâm trạng ta sẽ thấy được những nét chấm phá rất nghệ thuật, rất Nguyễn Du. Nhà thơ đã từng viết:

Cảnh nào cảnh chắng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!

Có lẽ đó là chân lí nghệ thuật thơ của Nguyễn Du. Một thế giới nội tâm trong thơ ông là những buồn vui trước thiên nhiên và cuộc sống phức tạp Xung quanh, là con người, là hiện thực xã hội trong thơ. Chính vì vậy không phải ngẫu nhiên mà ai đó đã nhận xét: Có thể nói ở văn học trung đại không có một nhà thơ thứ hai nào thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật như Nguyễn Du. nhất là nội tâm nhân vật Thuý Kiều.

Ở đây, tác giả đã viết rằng có thể nói, thật ra có thể nói là một sự mở đầu uyển chuyển. Cái tài của Nguyễn Du không là đoán định, mà phải là khẳng định và không bao giờ là có thể. Truyện Kiều là một tác phẩm văn học vĩ đại, và cái góp phần làm nên sự vĩ đại đó là nội tâm của Kiều. Một nhân vật, một tác phẩm không thể tuyệt vời được nếu như nhân vật đó không có nội tâm, tác phẩm ấy không tạo cho nhân vật cái nội tâm, cái hồn. Bởi nội tâm là thế giới tâm hồn phức tạp đem lại sức sống của nhân vật, nội tâm cũng chính là cái hồn của tác phẩm, cái hồn lắng đọng của thơ. Những cung bậc, trạng thái nội tâm chồng chất đan chéo mâu thuẫn chính là cái hay trong ngòi bút của Nguyễn Du khi viết truyện thơ, khi viết về Kiều.

Đoạn Kiều trao duyên cho Thúy Vân, Nguyễn Du đã không mở đầu bằng một nàng Kiều u uất, mà ông viết về một Thúy Vân vô tư:

Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
“Cơ trời dâu bể đa đoan, 
Một nhà để chị riêng oan một mình
Cở chi ngồi nhẫn tàn canh
Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?”.

Thế đấy, tâm trạng của Kiều được bộc bạch qua hành động của Thúy Vân, được bắt đầu bằng những lời nói của Thúy Vân. Thúy Vân đang say giấc xuân thế sao Kiều lại ngồi nhẫn tàn canh. Thúy Vân đang cùng chị chuẩn bị mừng duyên mới, cớ sao Kiều lại ngồi khóc. Tiếng khóc ấy không bật ra nhưng chỉ qua lời nói của Thúy Vân, nhưng ta vẫn cảm nhận, vẫn nhìn thấy cái thân thờ, dằn vặt, ray rứt, bối rối, vẫn cảm nhận, băn khoăn, xót xa, và đau đớn qua cái vô tư, bình thản của Thúy Vân. Ngay cả cái hoàn cảnh mở đầu của một đoạn thơ, chúng ta vẫn có thể nhận thấy cái vô tình rất nghệ thuật của Nguyễn Du. Cái vô tình ấy là một vô tình có dụng ý, nó càng chứng tỏ sự tinh tế trong cách diễn tả nội tâm của nhân vật. Vân càng vô tâm để rồi sau mới thắc mắc, hỏi han, càng làm bật lên nỗi âm thầm đau xót của Kiều. Chính vì thế không vô tình khi bắt đầu đoạn đời gái lầu xanh, bắt đầu phải tiếp khách làng chơi của Kiều, Nguyễn Du đã xây dựng tâm trạng nhân vật trong khung cảnh: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh. Ngay sau cơn say, ngay giữa lúc canh tàn, khi cuộc vui đã chấm dứt, khi thời gian đã tàn lụi, tác giả nói về nội tâm của nàng Kiều. Nội tâm Kiều được thể hiện ngay ở những dòng đầu tiên của đêm trao duyên và đêm truy hoan. Hai giai đoạn nội tâm khác nhau và cũng là hai hoàn cảnh khác. Nếu như lúc trao duyên, Kiều day dứt, băn khoăn được thể hiện qua cô em Thúy Vân, thì ở đây, trong cái cảnh phải tiếp khách làng chơi, Nguyễn Du lại đặt nội tâm của Kiều vào đêm khuya, vào mặt trái của những cuộc vui để thấy được cái chua chát, đau đớn của Kiều. Cái hay chính là ở đó, chính là những khoảnh khắc mà con người trải qua để rồi từng từ, từng ngữ, từng ý thơ, Nguyễn Du có thể biến nó thành những nội tâm chồng chất một cách khéo léo và tài tình. Nhà thơ đã viết:

Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
… Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thể
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai”.

Một lời mở đầu rất dịu dàng, dường như năn nỉ, dường như nài ép của Kiều. Cậy, Kiều cậy em, Kiều nhờ em chịu lời, Kiều xin, Kiều lạy rồi Kiều thưa. Từng từ, từng từ được thốt ra là đều cân nhắc và chọn lọc. Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du diễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất chín, Kiều đã quyết định trao duyên mình cho Thúy Vân. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng sẽ phải lỡ làng, cái ray rứt của nàng là ray rứt của Thúy Vân phải chắp nối tơ thừa. Nhưng khi ngỏ lời nàng còn biết cách nói cho dịu lòng Vân, để ép Vân nhưng tại sao, tại sao nàng lại kể về mối tình đầu thơ mộng, tuyệt đẹp của mình. Đáng lẽ ra trao duyên cho Vân, nàng phải kể về những cái đẹp cái tốt, cái đáng thương của Kim Trọng; đằng này nàng lại khẳng định mối tình của mình. Khi đọc đoạn: Kể từ khi gặp chàng Kim…, ta bỗng thấy dường như câu thơ bị khựng so với ý của câu trên. Đó chính là tâm lí của cô gái, đó chính là nghệ thuật trong ngòi bút của Nguyễn Du. Sự xúc động, niềm thương cảm đã làm bật dậy tình cảm, tâm trạng của nàng Kiều, suy nghĩ, đắn đo để quyết định trao duyên, nhưng khi thực sự mở lời, nàng không thể kìm được sự xúc động của chính mình. Đó là một tâm lí rất bình thường, một diễn biến tâm trạng rất hiển nhiên của con người. Đem trao một mối tình ai chẳng xót xa. Nếu như lúc đầu lời lẽ nàng cân nhắc, sắc sảo bao nhiêu thì giờ đây, khi nghĩ về mối tình của mình, nàng chợt lộ một tâm trạng mâu thuẫn đáng thương:

Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên.

Kiều trao duyên cho em, thì chiếc thoa với bức tờ mây là của Vân và Trọng. Thế mà nàng nghẹn ngào: Duyên này thì giữ, vật này của chung. Ngay cả nhịp thơ bốn – bốn ở câu thơ này cũng bộc lộ nỗi niềm sâu kín của Kiều. Như nghẹn ngào thổn thức bật lên vật này của chung, nàng luyến tiếc đau khổ xót xa cho những kỉ vật xưa. Và rồi những tình cảm chân thực ấy, tâm trạng đau khổ tuyệt vọng của Kiều được Nguyễn Du thể hiện bằng một từ duy nhất dù (Dù em nên vợ nên chồng). Khi đã quyết định trao duyên cho Vân, lẽ ra Kiều phải nói nên vợ nên chồng nhưng ở đây lại là dù nên vợ nên chồng. Kiều không còn bình tĩnh nữa, một sự lúng túng trong từng lời nói rất nhỏ nhặt này đã bộc lộ tài năng của Nguyễn Du. Trong Kiều lúc ấy sự lưu luyến tiếc thương, một nỗi lòng xúc động đau đớn, bằng những lời, từng chữ và đặc biệt là bằng sự cảm thông sâu sắc lạ lùng của nhà thơ. Bởi thế mới thấy được cái hay xác thực trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật của tác giả truyện Kiều. Trong thơ ông, nghệ thuật ấy chính là sức cảm thông lạ lùng mà thi hào dành cho tâm trạng những con người đang yêu, nó ánh lên sự hi sinh cao đẹp và bật lên cái ích kỉ đáng yêu trong tình yêu. Kiều trao duyên cho em nhưng nàng vẫn mong mình được nhớ đến. Cái mâu thuẫn ấy, những tâm trạng mong manh ấy đã là một minh chứng hùng hồn cho sự tài tình có một không hai ở ngòi bút của Nguyễn Du. Cái tài tình ấy còn là tâm trạng phức tạp, sự khác biệt nội tâm của nhân vật. Nhà thơ viết:

Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?

Cũng là một nàng Kiều với nội tâm đầy sóng gió của mình, nhưng ở hai giai đoạn đời người là hai sự đúc kết khác nhau, là hai cách diễn đạt khác nhau. Nếu như ở đoạn trao duyên cô gái trong trắng Thúy Kiều rất bình tĩnh, bình tĩnh đến lạnh lùng đáng sợ. Bởi tâm trạng nàng giờ đây không còn là mong manh đau khổ của người con gái lần đầu tiên đối mặt với cuộc đời, nó trở thành cái đau đớn lạnh giá trong lòng một người phụ nữ ô nhục sao, sao,lại sao khi sao, giờ sao, mặt sao…), điệp từ ấy như khúc điệp đập vào lòng người, vào tâm trạng tủi nhục đến ê chề của Kiều. Nàng không còn là sự lưu luyến ngây thơ đau khổ, mà nàng đang chán chường oán hận. Cũng là đau khổ đấy, cũng là tiếc thương cho những gì đã có đã qua, một mối tình, một cuộc sống phong gấm rủ là, nhưng ở cô gái Thúy Kiều còn trướng rủ màn che, nó khác với người phụ nữ đã dày gió dạn sương, đã bướm chán ong nhường. Hai tâm trạng đời người với hai nét bút, hai nét vẽ. Cái khổ nào cũng là tột cùng, cái khổ nào của chàng cũng là sự tan vỡ tâm hồn. Nhưng khi nghĩ về chính mình ở đoạn trao duyên, sự đau đớn của nàng được bật lên thành lời, một tiếng kêu khẩn thiết của nỗi lòng đau khổ của một cô gái yếu đuối:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thối thiếp đã phụ chàng từ đây…

Sự đau khổ, sự ức chế được thốt ra thì khi nghĩ về pt:ận mình, về đời mình chốn lầu xanh, Nguyễn Du đã cho nàng đắm chìm trong suy nghĩ, không cho nàng một tiếng kêu xót xa, có chăng thì đó chỉ là những câu hỏi thầm oán hận không câu trả lời. Để rồi chính nhà thơ bằng ngòi bút của mình đã nói lên nỗi đau khổ, tuyệt vọng tột đỉnh của nhân vật:

Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
Lần lần thỏ bạc ác vàng
Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn…
Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân.

Thế đấy, nội tâm của Kiều thể hiện qua tiếng lòng xót thương của Nguyễn Du: Song sa, vò võ rồi lại phương trời, từng từ, từng từ như luyến như quyện vào nhau để bật lên cái cô đơn ê chề trong hoàn cảnh của Kiều, cho cái kiếp hồng nhan bạc mệnh của nàng. Không chỉ là một sức cảm thông lạ lùng của Nguyễn Du dành cho Kiều, mà còn là tình thương to lớn, thương cho tâm trạng tan nát của nàng. Nguyễn Du đã thốt lên rằng: Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân. Thật sự nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du đã lên đến cái đỉnh cao trong dòng văn học cổ. Bất kì một chi tiết, một hoàn cảnh nào, Nguyễn Du cũng mượn nó để chứa đựng, để phơi bày thế giới nội tâm của nhân vật. Thật vậy, trong đau khổ, con người ta hay tự tìm cho mình một chỗ dựa để vươn lên, và để sống. Ở Kiều, chỗ dựa vững chắc cho tâm hồn nàng chính là tình gia đình và người tình. Nhưng nếu như trong những ngày bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, nàng đã sớm nghĩ về Kim Trọng trong sự lo lắng cho người yêu và có chút gì đó hi vọng thì ở đây nàng lại nghĩ về gia đình trước:

Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà
Dặm nghìn nước thẳm non xa
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này.

Nàng nghĩ về chữ hiếu, rồi mới nhớ đến chữ tình:

Nhớ lời nguyện ước ba sinh
Xa xôi ai có thấu tình chẳng ai?
Khi về hỏi liễu Chương Đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay! 
Tình sâu mong trả nghĩa dày,
Hoa kia đã chắp cánh này cho chưa?

Tại sao trong đoạn đời tủi nhục này, nàng lại nghĩ trước hết về chữ hiếu, về cha mẹ? Đó là một khía cạnh trong nội tâm của Kiều mà Nguyễn Du khéo diễn tả. Nếu như trước đây, Kim Trọng là sự đau đớn vô vọng. Nàng chỉ mong được trả nghĩa, nàng tự hỏi hoa kia đã chắp cánh này hay chưa? Nàng đã chấp nhận số mạng, Kim Trọng chỉ còn là những kỉ niệm bởi nàng đã là người phụ nữ lê chề chốn lầu xanh. Cha mẹ, chữ hiếu giờ đây chính là điểm tựa để nàng sống, để nàng vượt lên những đau khổ hiện tại. Những nét đẹp tâm hồn ấy, những biểu hiện trong nội tâm của Kiều đã được Nguyễn Du khai thác triệt để, nó càng chứng tỏ tài năng vượt trội của thi hào. Nếu như ở Hồ Xuân Hương hay ở Nguyễn Khuyến thế giới nội tâm cũng được bộc lộ trong từng từ, từng câu, từng hoàn cảnh với những dụng ý viết rất nghệ thuật. Thì ở Nguyễn Du, cao hơn một bước, thế giới nội tâm không bó trong một không gian hẹp, không giới hạn trong cái nhìn về những bức xúc của người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn; cũng như không chỉ là những trăn trở về thời cuộc như Nguyễn Khuyến. Thế giới nội tâm trong Truyện Kiều trải dài, xuyên suốt một tác phẩm, đi từ những cái nhỏ nhất, bình dị nhất của cuộc sống đến những khái quát cao sâu. Trong dòng văn học trung đại, thế giới nội tâm thường là những khái quát về một bức xúc trong xã hội, thì ở Nguyễn Du là nội tâm của con người trong từng giai đoạn đời người, đó là những tâm lí đời thường dung dị.

Không dừng lại ở đó, ngòi bút của Tố Như là một ngòi bút thiên phú, thế giới nội tâm trong Truyện Kiều của Nguyễn Du còn được ngụy trang bằng thiên nhiên, bằng những nghệ thuật ước lệ tài tình:

Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ! 
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Tám câu thơ là hai đoạn đối nhau, đối về hình thức, nghệ thuật và nội dung. Tám câu thơ rất nhiều khung cảnh thiên nhiên. Với bút pháp ước lệ quen thuộc của mình, Nguyễn Du đã bộc lộ tâm trạng nàng Kiều rất sâu sắc. Có thể nói Nguyễn Du là bậc thầy trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Cảnh vật trong thơ ông bao giờ cũng mang cái tình, cũng in đậm một thế giới nội tâm. Thi hào Nguyễn Du đã mượn thiên nhiên để tả cuộc sống lầu xanh, một cuộc sống có hoa, có gió, có trăng, có những cảnh đẹp tưởng nên thơ, một cuộc sống cũng có cái vẻ thanh thản thưởng thức tiếng đàn dưới trăng, chơi cờ ngâm thơ trong cái ngạt ngào của hương hoa. Nhưng cũng chính những “mặt phải” tưởng như tao nhã ấy đã làm nổi bật cái nội tâm sâu sắc, cái tâm hồn tinh khiết của Thúy Kiều. Nếu như Nguyễn Trãi mượn thiên nhiên để gửi vào đó cái u ám của xã hội thì Nguyễn Du sử dụng thiên nhiên để “làm đẹp” cho cuộc sống ở lầu xanh, một xã hội phong kiến thu nhỏ bởi cả hai đều đẩy con người vào bước đường cùng. Để rồi chính những nét đẹp đó bị nội tâm trăn trở u uất của Kiều đè bẹp. Chính nội tâm sâu sắc của Kiều: Vui là vui gượng kẻo là – Ai tri ân đó mặn mà với ai? Chính sự bức xúc đau đớn, chính cái ai bế tắc, chính vui gượng tỏa trong nội tâm của Kiều đã công kích, đối nghịch với những nét tao nhã chốn lầu xanh. Mặt trái cuộc sống được phơi bày, những nét đẹp ấy chỉ là sự giả tạo dối trá gió chỉ tựahoa chỉ kề, tiếng đàn vui gượng… mới thấy được những tiếng vỗ tay tán thưởng cho tài năng của nàng hoàn toàn vô nghĩa. Đó chỉ là cuộc sống bạc bẽo, nhầy nhụa ở chốn lầu xanh. Nỗi lòng cô đơn u uất của Kiều là lời tố cáo cuộc sống mà nàng đang phải sống. Nó bóp nghẹt tiếng đàn, câu thơ của nàng. Nhưng tâm trạng, nội tâm của nàng không bị vùi lấp bởi sự đau khổ ấy, nó vẫn vươn lên.

Sự chán chường, đau khổ, tuyệt vọng của Kiều được Nguyễn Du diễn tả bằng những bút pháp khác nhau. Để rồi từ những diễn biến tâm lí rất hợp lí, tinh tế trong cuộc sống, trong tình yêu, Nguyễn Du khái quát thành một thế giới nội tâm phong phú đầy ray rứt băn khoăn khắc khoải. Chính qua cái thế giới nội tâm ấy, thi hào Nguyễn Du làm bật lên một đặc điểm cố hữu: mượn cái đau đớn của nội tâm để tố cáo xã hội, tố cáo những kẻ đã đẩy con người, đã trút lên con người những tủi nhục ê chề đó.

Thơ Nguyễn Du khi diễn tả thế giới nội tâm có cái chung trong thơ văn cổ, và cũng có những nét riêng sáng tạo. Đó chính là một nghệ thuật diệu kì, và đó cũng chính là lời minh chứng hùng hồn: Không có một nhà thơ thứ hai nào thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật như Nguyễn Du. Và Kiều, thế giới nội tâm của nàng là cơ sở nền tảng cho lời nhận xét ấy.

Trần Thị Bình An – Trường PTTH chuyên – Amsterdam Hà Nội

Đề 59 – Nhận định về nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong Truyện Kiều, có ý kiến cho rằng: “Có thể nói ở văn học trung đại không có một nhà thơ thứ hai nào thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật như Nguyễn Du, nhất là nội tâm nhân vật Thúy Kiều” Hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua hai đoạn trích “Trao duyên” và “Những nỗi lòng tê tái”.
Đánh giá bài viết