BÀI LÀM 

Nguyễn Minh Châu là nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Ông vừa là nhà văn, vừa là chiến sĩ, trong cuộc đời sáng tác ông luôn tìm tòi, sáng tạo nhằm phục vụ tốt nhất cho cách mạng, cho nhân dân. Ông để lại rất nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó phải kể đến truyện ngắn “Bến quê”.

“Bến quê” kể về câu chuyện nhân vật Nhĩ từng đi rất nhiều nơi trên trái đất, cuối đời lại phải nằm liệt giường bởi mắc một căn bệnh hiểm nghèo và sắp phải giã từ cuộc đời. Trong những ngày cuối đời Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp của những cảnh vật tưởng như đã cũ mà lại rất mới lạ đó là bãi bồi ven sông trước cửa sổ nhà anh đang ở. Mặc dù rất gần nhưng không bao giờ anh được đặt chân đến vùng đất ấy nữa. Nhĩ phải nhờ người con trai thực hiện khao khát ấy của mình. Nhưng cuối cùng, người con cũng không giúp mình thực hiện được.

Trước tiên, sự thức nhận của Nhĩ được thể hiện qua sự cảm nhận của anh về thiên nhiên trong một sớm đầu thu. Thiên nhiên trong buổi sớm đầu thu không đẹp như những bức tranh thiên nhiên trong nhiều thi phẩm khác nhưng cảnh thiên nhiên được cảm nhận bằng cái nhìn đầy tâm trạng, bằng những cảm xúc tinh tế của nhân vật Nhĩ, một con người sắp từ giã cõi đời nên cảnh vật ấy dần hiện ra với những vẻ đẹp riêng. Những bông hoa bằng lăng tím cuối mùa dần thưa thớt, sắc hoa vốn đã nhợt nhạt giờ lại đậm sắc hơn… để rồi cuối cùng thẫm màu hơn, một màu tím thẫm như bóng tối. Đâu phải là những màu sắc tươi tắn mà là những sắc màu của sự tàn phải, là dấu hiệu của sự tiêu biến. Và cái tàn lụi đó bỗng trở nên gấp gáp hơn, vội vã hơn, nhẫn tâm hơn bởi nó gắn bó với tâm trạng của con người. Đặc biệt là anh nhận ra vẻ đẹp của bến quê – đó là vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông: Hình ảnh con sông Hồng màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Ngay cả cái vòm trời mùa thu như cao hơn: Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi… cả một vùng phù sa lâu đời cũng đang phô ra một thứ màu vàng thau xen lẫn với màu xanh non.. những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, như hơi thở… Đó là những hình ảnh rất thực, rất quen thuộc, gần gũi nhưng chỉ đến sáng hôm nay Nhĩ mới cảm nhận ra được như một phát hiện vừa mới mẻ, vừa muộn màng, có cảm giác như lần đầu tiên anh mới nhìn thấy.

Từ sự thức nhận những vẻ đẹp bình dị nơi bến quê, trong anh có sự so sánh, chiêm nghiệm: “Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến”. Phải chăng đây là tâm trạng của một con người đang nặng trĩu những từng trải, đau thương: yêu quê hương nhưng một đời người thường phải li hương, thường hờ hững và mắc vào cái điều vòng vèo, chùng chình nên giờ thì cảm thấy tiếc nuối, xa xôi. Và bằng trực giác, Nhĩ đã nhận ra mình chẳng còn sống được bao lâu nữa. Anh đang phải đối mặt với hoàn cảnh bi đát không còn lối thoát. Tuy ngày nào cũng uống thuốc nhưng bệnh tình không thuyên giảm, hôm nay “cũng chỉ cảm thấy như hôm qua”. Nhấc mình ra được bên ngoài tấm nệm đang nằm, Nhĩ cảm thấy như mình “vừa bay được một nửa vòng trái đất”. Lạc quan, hi vọng như Liên làm sao được. Anh chỉ còn biết hài hước đùa vui để đêm đêm con người thực của anh thao thức, lắng nghe, cái âm thanh mà vợ anh giả vờ không nghe ấy là cái bờ đất lở phía bên này “cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ”. Có lúc Nhĩ thảng thốt, giật mình như bấm đốt ngón tay: “hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ ?”. Trước những lời anh hỏi vợ và sự im lặng của Liên, ta cảm nhận được cuộc sống buồn tẻ, chán ngắt và đầy tuyệt vọng, cái chết đến dần với anh. Rõ ràng con người suy kiệt về thể xác nhưng lại tỉnh táo, sáng suốt về tinh thần trong hoàn cảnh ấy rất dễ rơi vào tâm trạng bế tắc, bị quan, hoặc khao khát, chiêm nghiệm về một cái gì lớn lao thuộc chân lí cuộc đời.

Tiếp đó là những cảm nhận của Nhĩ về người vợ của anh chính là Liên. Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá, những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai của anh, và Nhã nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng của vợ. Anh nói với chị Liên: “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm mà em vẫn nín thinh”. Còn Liên đã trả lời: “Có hề sao đâu, miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian phòng này” Nhìn vợ bước xuống cầu thang với tiếng bước chân “rón rén quen thuộc suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm”, anh đã xót xa vô cùng. Cái bậc gỗ ấy đã mòn lõm, Nhĩ mới có điều kiện để lắng nghe bước chân thân thuộc ấy và nhớ đến vợ anh thời con gái còn mặc áo nâu, chít khăn mỏ quạ nay đã là một phụ nữ thị thành mà cuộc đời nào có khấm khá gì hơn. Điều đó không khỏi làm Nhĩ ngạc nhiên và buồn bã. Giờ đây, anh mới thực sự thấu hiểu và biết ơn sâu sắc người vợ của mình. Thật là đau đớn với anh vì đời người sắp hết mới nhận ra sự thờ ơ của mình trong quãng đời còn trẻ với những người thân thuộc nhất. Đáng ra chính Nhĩ đã phải phát hiện từ sớm để được suốt đời trân trọng, yêu thương như tình yêu mà Quỳ đã dành cho nhân vật “anh ấy” (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành).

Từ sự nhận thức về những điều trong cuộc sống đã tạo nên khát khao cháy bỏng trong tâm hồn Nhĩ. Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông để được chiêm ngưỡng và tận hưởng vẻ đẹp rất đỗi bình dị và gần gũi mà có một thời Nhi đã lãng quên nó. Sang được bờ sông bên kia, với Nhĩ vừa là mơ ước, vừa là suy ngẫm về cuộc đời. Miền đất ấy là ước mơ. Miền đất ấy cũng gợi trong Nhĩ bao nhiêu suy ngẫm về cuộc đời có thực. Hình ảnh có thực về cuộc đời chứ không phải danh lam thắng cảnh, nước biếc non xanh, cuộc đời có thực ấy thật nguyên vẹn, thật dung dị “cả trong những nét tiêu sơ”. Thế giới ước mơ ấy chẳng qua chỉ là trong tâm tưởng của con người nên có thể nó sẽ là một ước mơ tuyệt mĩ hoặc chẳng là cái gì cụ thể cả. Tuy vậy nó lại là cái đích mà con người ta phải bôn tẩu, kiếm tìm, vượt qua bao nhiêu gian truân, khổ ải mà chưa chắc đã đến được. Cái vùng “mơ ước tâm tưởng” ấy không phải ai cũng hiểu được nếu chưa ở độ chín của sự từng trải hoặc quá ngây thơ. Chẳng hạn như Tuấn, con trai anh, do không hiểu được cái thế giới ước mơ kia của Nhĩ, vâng lời bố mà đi nhưng không hề biết vì sao nó phải đi, ở bên kia sông có gì lạ. Nó sẵn sàng và sà vào đám người chơi phá cờ thế bên hè” là lẽ dĩ nhiên, Còn Nhĩ, khi biết thằng bé đã đi, tâm hồn anh trào dâng bao nhiêu náo nức. Nó cũng là “một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên”. Những hành động, cử chỉ của cậu con trai phải chăng chính là hình ảnh của Nhĩ thuở nào. Nhìn đứa con không hiểu được điều anh nhờ nó, anh đã rút ra triết lí sâu xa đó như nỗi niềm đau đớn pha lẫn sự ân hận của riêng anh: “con người ta trên đường đời khó tránh được những cái điều vòng vèo và chùng chình”. Đó là triết lí của một người đã trải nghiệm “Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia”, đã có ước muốn xa vời mà cuộc đời khi còn trẻ vô tình bỏ qua những cái bình dị ngay bên ta. Vậy là không phải triết lí của một mà của hai thế hệ anh nhìn thấy nên nó có tính chất quy luật tâm lí của con người. Hiểu được triết lí ấy ta mới hiểu được ý tưởng sâu xa của tác giả như muốn khuyên mỗi chúng ta đừng lãng phí thời gian vào những điều vòng vèo chùng chình mà cần trân trọng những giá trị bền vững, những vẻ đẹp bình dị của cuộc đời ở ngay bên ta. 

Hành động cuối truyện là hình ảnh cuối cùng của nhân vật để lại một ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc trong lòng người đọc. Lúc này, ranh giới giữa sự sống và cái chết mong manh như tờ giấy nên anh đã: “đu mình nhô người ra ngoài cửa sổ” để được đến gần hơn với miền đất mơ ước. Cánh tay gầy guộc như khẩn thiết ra hiệu cho con trai hãy tiến lên thực hiện niềm mong ước cuối cùng này của mình hay như muốn chạm vào, muốn với đến miền đất mơ ước? Cánh tay vẫy vẫy đó cũng như đang vẫy chào con đò, tạm biệt con đò quen thuộc đã chở nặng mơ ước của Nhĩ, con đò đã đưa Nhĩ sang sông trong tâm tưởng, với niềm mê say đầy đau khổ với quê hương, với cuộc sống. Cái vẫy tay ấy như lời vĩnh biệt của anh, vĩnh biệt tất cả những gì là thân thuộc, gần gũi, những nét đẹp vĩnh hằng của đời sống mà nhiều khi những bận rộn lo toan, mục đích của cuộc sống đã che lấp khiến cho chúng ta không dễ nhận ra, khi nhận ra thì cũng là lúc anh phải xa lìa. Đó cũng là lời nhắc nhở đầy xót xa, day dứt của Nguyễn Minh Châu tới tất cả chúng ta hãy sống có ích, đừng sa đà vào những điều vòng vèo, chùng chình, những cám dỗ, hãy dứt ra khỏi nó để hướng tới một cuộc sống tốt đẹp, hãy dứt khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực, vốn giản dị, gần gũi và bền vững của gia đình và quê hương.

Bến quê quả thật là một tác phẩm đã sáng tạo được nhiều hình ảnh vừa có ý nghĩa thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng. Mặt sông, vòm trời, bãi bồi là những hình ảnh cụ thể biểu tượng cho quê hương xứ sở. Những bông hoa bằng lăng cuối mùa, tiếng những tảng đất lở ở bờ sông bên này là biểu tượng cho sự sống của Nhĩ đang ở những ngày cuối cùng. Đứa con trai của Nhĩ với sự chùng chính của nó gợi cho ta hình ảnh của Nhĩ trước đây cũng luôn chùng chình và vòng vèo.

Nguồn website giaibai5s.com

Bài 79: Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu
Đánh giá bài viết