I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tác giả

– Chế Lan Viên (1920 – 1989), tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở Quảng Trị.

   Tập thơ đầu tay Điều tàn (1937) đã đưa tên tuổi của Chế Lan Viên vào trong số những nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ mới. Tham gia kháng chiến chống Pháp, Chế Lan Viên đã tìm được con đường cho thơ mình đến với nhân dân và đời sống cách mạng. Thơ Chế Lan Viên có phong cách nghệ thuật rõ nét và độc đáo: suy tưởng triết lí, đậm trí tuệ và tính hiện đại. Chế Lan Viên có nhiều sáng tạo trong nghệ thuật xây dựng hình ảnh thơ. Hình ảnh thơ của ông phong phú đa dạng, kết hợp giữa thực và ảo, thường được sáng tác bằng sức mạnh của sự liên tưởng, tưởng tượng nhiều bất ngờ kì thú.

– Tác phẩm chính: Điều tàn (1937), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường, Chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972),…

2. Tác phẩm

   Bài thơ Tiếng hát con tàu rút từ tập Ánh sáng và phù sa. Bài thơ được gợi cảm hứng từ một sự kiện kinh tế – chính trị, xã hội: cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc vào những năm 1958 – 1960.

II. HƯỚNG DẪN ĐỌC THÊM

1. Hình ảnh con tàu biểu tượng cho khát vọng, niềm tin mơ ước của người nghệ sĩ hướng tới cuộc đời mới của dân tộc. Nó mang theo tình yêu sâu sắc, sự hòa nhập nhiệt thành của con người với đất nước, quê hương. Bao nhiêu câu thơ là bấy nhiêu khát vọng được thắp sáng. Tình yêu thiết tha với Tây Bắc được tác giả viết về nó không trừu tượng, xa lạ mà hết sức cụ thể, gần gũi, là một phần tâm hồn con người. Mảnh đất Tây Bắc xa xôi, chưa một lần đặt chân đến bỗng gần gũi, thân thiết kì lạ. Phải chăng, chính tình yêu, khát vọng đã kéo gần khoảng cách giữa đất và người. Hành trình đến Tây Bắc là hành trình trở về với tâm hồn mình.

   Lời đề từ là một loạt câu hỏi tu từ, kết hợp với nhịp thơ da diết, chở đi nỗi khắc khoải của tâm hồn với Tây Bắc. Câu thơ giống như lời khẳng định tình yêu Tây Bắc khôn cùng trong trái tim nhà thơ, khẳng định khát vọng lên đường của người nghệ sĩ. Tình yêu và khát vọng đã xóa mờ khoảng cách không gian và thời gian.

2. Bài thơ có thể chia thành mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn. Bố cục đó thể hiện sự vận động tâm trạng của chủ thể như thế nào?

– Bố cục: 3 đoạn

+ Đoạn 1 (2 khổ đầu): Sự trăn trở và lời mời gọi lên đường.

+ Đoạn 2 (9 khổ giữa): Khát vọng về với nhân dân và những kỉ niệm kháng chiến đầy nghĩa tình.

+ Đoạn 3 (còn lại): Khúc hát lên đường sôi nổi, tin tưởng và say mê.

– Bố cục trên thể hiện sự vận động, phát triển đầy lôgic của tâm trạng chủ thể trữ tình, đi từ lí tưởng đến khát khao dấn thân, cống hiến, đi từ kỉ niệm, nỗi nhớ đến ước vọng gặp gỡ trở về.

3. Niềm hạnh phúc lớn lao khi gặp lại nhân dân được nhà thơ thể hiện trong khổ thơ nào? Phân tích đặc sắc về nghệ thuật của khổ thơ đó.

   Niềm hạnh phúc lớn lao khi gặp lại nhân dân được nhà thơ thể hiện trong đoạn trích:

           “Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
           
           Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
           Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!”.

a)Khổ thơ đầu (của đoạn trích)

– Tình cảm bao trùm là lòng biết ơn sâu nặng và niềm hạnh phúc lớn lao của cái tôi trữ tình khi từ bỏ thế giới nhỏ hẹp của cá nhân để về với nhân dân. Đối với con người đây, nhân dân là những gì thân thường mật thiết, là ngọn nguồn sự sống, là bầu sinh khí, là nguồn sinh lực, luôn cưu mang, che chở, tiếp sức… Cho nên về với nhân dân là lẽ sống lớn, một hạnh phúc lớn. Phân tích được ý nghĩa đó trong các cặp hình ảnh: “Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ”, “Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa”, “đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa”, “Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”… Cẩn thấy đó cũng chính là mối quan hệ thiêng liêng giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người và cuộc sống nói chung.

– Nghệ thuật nổi bật là việc tạo ra những cặp hình ảnh giàu tính tượng trưng, mỗi cặp sắc thái khác nhau: nai – suổi cũ, cỏ – tháng giêng, tháng hai, chim én – mùa xuân, chiếc nối ngừng – cánh tay đưa, cơn khát trẻ thơ – bầu sữa mẹ. Đồng thời, chú ý cá tính trùng điệp của chuỗi so sánh dài ấy, tạo nên kiểu So sánh trùng điệp. Nhờ đó mà cảm xúc thêm nồng nàn, suy tư thêm sâu sắc.

b) Ba khổ thơ tiếp theo (của đoạn trích)

– Tình cảm bao trùm là nỗi nhớ da diết về những kỉ niệm với Tây Bắc của một người con luôn khắc cốt ghi tâm bao ơn nghĩa. Nhớ về những việc làm đầy hi sinh, đùm bọc, cưu mang rất cụ thể của người anh (cho tấm áo trước lúc hi sinh), người em liên lạc (mười năm liền tận tụy miệt mài), người mẹ (thức suốt một mùa dài để ân cần chăm Sóc). Phân tích những hình ảnh cảm động: “Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn – Chiếc áo nâu suốt cuộc đời và rách – Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con – Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ… Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư… Lửa hồng soi tóc bạc – Năm con đau, mế thức một mùa dài”… và những tâm nguyện đinh ninh: “Con với mế không phải hòn máu cắt – Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”.

– Nét nghệ thuật nổi bật ở đây là việc tạo ra nhiều hình ảnh chân thực, gây được ấn tượng mạnh. Hình ảnh được tạo bằng thủ pháp đối lập nhuần nhuyễn: chiếc áo nâu – một đời và rách, mười năm tròn – một phong thư, lửa hồng – tóc bạc, năm con đau, mế thức một mùa dài… Đồng thời, là cách xưng hô theo quan hệ máu mủ ruột thịt: anh con, em con, mế. Nhờ những nét nghệ thuật ấy mà hình ảnh sắc nét, lời thợ thấm thía, cảm xúc da diết…

c) Khổ thơ cuối (của đoạn trích).

– Bao trùm lên khổ thơ này là niềm nhớ thương đằm thắm, sâu nặng với những miền quê mình đã từng qua với lời nhớ thương, lời khẳng định, cùng những hình ảnh thân thương: “Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ – Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương”. Đồng thời là suy tư sâu sắc về những chuyển hóa kì diệu của tâm hồn con người được đúc kết thành triết lí: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở – Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”. Đó là điều kì diệu mà tình cảm con người đã làm được để biến kỉ niệm với những miền đất mình đã từng qua thành tâm hồn của chính mình.

– Đoạn này, thủ pháp trùng điệp tiếp tục được sử dụng, với các điệp từ, điệp ngữ: Nhớ… nhớ…, Khi ta… Khi ta… Nhưng quan trọng hơn cả là lối suy tưởng: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở – Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”. Tác giả tạo ra sự phi lí bề ngoài (đất hóa tâm hồn) làm hình thức chứa đựng chân lí bên trong: Tình cảm gắn bó giữa con người với những miền đất sẽ theo thời gian mà âm thầm bồi đắp nên tâm hồn cho con người. Đây là một triết lí sâu sắc, thâu tóm được một quy luật phổ biến trong đời sống nhân sinh. Từ cảm xúc suy tư đúc kết thành những triết lý chính là một nét độc đáo của nghệ thuật thơ.

4. Hình ảnh nhân dân trong kỉ niệm của nhà thơ được gợi lên qua hình ảnh những con người cụ thể. Phân tích những khổ thơ nói về những kỉ niệm đó để làm rõ sự gắn bó và lòng biết ơn sâu nặng của nhà thơ với nhân dân.

   Kỉ niệm về nhân dân trong kháng chiến đã được tái hiện qua những hình ảnh con người cụ thể như người anh du kích, thằng em liên lạc, người mẹ cách mạng. Tác giả sử dụng cách xưng hô thân thiết trong gia đình với những người không có mối quan hệ ruột rà, huyết thống tạo nên những tình cảm ấm áp, thân tình. Nhân dân chính là máu thịt, là gia đình, là những người thân thiết. Hành trình trở về với nhân dân là trở về với một phần tâm hồn, máu tim mình. Những câu thơ thắm thiết tình quân dân cá nước. Mỗi một khổ thơ là chân dung về con người cách mạng đẹp đẽ, hào hùng, mang những phẩm chất cách mạng gan dạ, anh hùng nhưng giàu yêu thương. Sức mạnh của cả dân tộc, cộng đồng đã được thể hiện và khẳng định qua tập thể nhân dân anh hùng.

   Cuộc gặp gỡ giữa tác giả với nhân dân đã được viết bằng những dòng thơ đầy gắn bó, nặng biết ơn. Đó không phải là cuộc gặp gỡ đơn thuần mà là cuộc hội ngộ trong hạnh phúc. Niềm vui sướng, niềm hạnh phúc dâng trào, bất tận, trở thành tiếng ca reo vui, tiếng lòng phấn khởi, tiếng đập náo nức trong lời thơ câu chữ. Tác giả đã diễn tả sự gắn bó, lòng biết ơn, và nỗi mừng vui của mình bằng một cụm từ mang ý nghĩa biểu tượng rất cao, có dụng ý nghệ thuật sâu sắc. Hành trình về với nhân dân là về với cội nguồn, tìm về sự sống, tiếp thêm sức mạnh. Cuộc gặp gỡ như là một lẽ tất yếu, như một sự hồi sinh. Câu thơ ngập tràn những yêu thương thiêng liêng, cảm động.

5. Những câu thơ thể hiện rõ nhất chất suy tưởng và triết lý của nhà thơ Chế Lan Viên

         Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

         Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!

   Từ những trải nghiệm, gắn bó với nhân dân và đất nước trong kháng chiến, tác giả đã chiêm nghiệm, khái quát về chân lí đời sống. Sự khái quát ấy giản dị mà sâu sắc, cao cả khôn cùng. Chế Lan Viên đã đối lập giữa ở và đi để khẳng định tình yêu thương, sự gắn bó giữa người và đất. Tác gia nắm bắt rất chính xác những cảm xúc của lòng người. Quy luật tình cảm tưởng chừng giản đơn mà lại hết sức sâu xa. Chế Lan Viên đã lấy tình yêu làm sợi dây liên kết tâm hồn. Tác giả dùng sự trải nghiệm sắc sảo, những rung động tinh tế trong tình cảm con người với dân tộc mình để khái quát chân lí thiêng liêng ấy. Chỉ có sự gắn bó máu thịt, lòng say mê nhiệt thành với mảnh đất mình đang sống thì nơi đó mới trở thành một phần tâm hồn mình. Sức mạnh cao cả của tình yêu thương đã làm nên điều kì diệu đó. Triết lí tưởng quen mà lạ, tưởng đơn giản mà có ý nghĩa vô cùng to lớn, làn xúc động và cảm hóa lòng người bằng chính những xúc cảm chân thành.

6. Nhận xét và đánh giá nghệ thuật sáng tạo hình ảnh của Chế Lan Viên trong bài thơ.

– Bài thơ đậm chất suy tưởng triết lý – một nét nổi bật trong phong cách thơ Chế Lan Viên. Kết hợp cảm xúc và suy tưởng, nâng cảm xúc, tình cảm lên thành suy ngẫm triết lí, do vậy triết lí mà không khô khan trừu tượng trái lại rất gần gũi.

– Hình ảnh thơ: Bên cạnh những hình ảnh thực, dung dị, bài thơ còn có nhiều hình ảnh được sáng tạo bằng liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, hòa trộn thực với ảo, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của người đọc.

Nguồn website giaibai5s.com

Tuần 12: Đọc thêm: Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên
Đánh giá bài viết