I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

– Tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, quê ở Thanh Hoá. Nguyễn Duy đã được trao giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1972 – 1973. Ông trở thành một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước và tiếp tục bền bỉ sáng tác. Theo nhà phê bình văn học Hoài Thanh: “Thơ Nguyễn Duy có một vẻ đẹp không gì sánh được, quen thuộc mà không nhàm chán. Nguyễn Duy đặc biệt thấm thía cái cao đẹp của những cuộc đời cần cù chăm chỉ, chất thơ của Nguyễn Duy chính là cái hiên hậu, một cái gì rất Việt Nam”. Năm 2007, Nguyễn Duy được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. .

– Tác phẩm chính về thơ: Cát trắng (1973), Ánh trăng (1984), Đại cát tìm vàng (1987),… Ngoài thơ, ông còn viết tiểu thuyết, bút kí và một số thể loại khác: Em – sóng (kịch thơ, 1983), Khoảng cách (tiểu thuyết, 1986),…

– Bài Đò Lèn được viết năm 1983, trong một dịp nhà thơ trở về quê hương, sống với những hồi ức đan xen nhiều buồn vui thời thơ ấu.

II. HƯỚNG DẪN ĐỌC THÊM

1. Trong bài thơ, cái tôi của tác giả thời tuổi nhỏ được tái hiện như thế nào? Nét quen thuộc và mới mẻ trong cách nhìn của tác giả về chính mình trong quá khứ?

   Kí ức tuổi thơ đã được hiện lên hết sức sinh động trong tâm tưởng của nhà thơ:

        Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

        níu váy bà đi chợ Binh Lâm

        bắt chim sẽ ở vành tai tượng Phật

        và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần.

   Những câu thơ ngọt ngào gợi ra kỉ niệm ấu thơ với những “cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần” mà tác giả đã “câu cá, níu váy bà đi chợ, bắt chim sẻ, ăn trộm nhãn”. Những địa danh cụ thể, thân thuộc gắn liền với những hiếu động, nghịch ngợm trẻ thơ được nhắc đến, hiện lên đầy sinh động, gần gũi, như mở ra vùng kí ức thơ dại, chạm đến những kỉ niệm sâu lắng nhất trong lòng người.

        Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

        chân đất đi đến xem lễ đền Sòng

        mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm .

        điệu hát văn lảo đảo bóng có đồng.

   Tuổi thơ hiện lên trong tâm trí, hồi tưởng của tác giả được tập trung trong không gian của những “đền Cây Thị, đền Sòng”, với mùi huệ trắng” hòa quyện với khói hương trầm, với “điệu hát văn”, “bóng cô đồng”,… Với kí ức tuổi thơ hiện về đầy vui 1 tươi, sinh động ở khổ thơ thứ nhất, thì đến đây lại trở nên lắng đọng, thâm trầm.

   Những âm thanh, hương vị, sắc màu,… của bức tranh kỉ niệm ấu thơ như được lưu giữ phần tâm kinh sâu kín nhất của tác giả, để những câu thơ vẫn ấp ủ được hồn cốt của cảnh, của tình.

2. Tình cảm sâu nặng của tác giả đối với bà mình được biểu hiện cụ thể như thế nào? 

   Hình ảnh người bà âm thầm chịu đựng muôn vàn vất vả để nuôi dạy đứa cháu mồ côi nghịch ngợm sống lại trong kí ức nhân vật trữ tình đã thể hiện tình cảm sâu nặng của tác giả với người bà của mình.

   Hình ảnh người bà thân thuộc của nhà thơ hiện lên như cò lặn lội, chỉ đọc thôi đã muốn trào lên nỗi nghẹn ngào:

        bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan

        bà đi gánh chè xanh Ba Trại

        Quán Cháo, Đồng Giao thập thăng những đêm hàn.

   Lời thơ giống như một sự thú nhận, một nỗi ăn năn vì mình có lỗi với bà, vì mình quả trong sáng và thơ ngây, vì mình quá đỗi vô tâm.

   Hình ảnh người bà ngoại đang bán trúng ở ga Lèn đầy cảm động giữa cái tan hoang của cảnh vật có biết đâu lại là hình ảnh cuối cùng về người bà in lại trong tâm trí nhà thơ:

        Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất

        đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

        thánh với Phật ra nhau đi đâu hết

        bà tôi đi bán trung ở ga Lèn.

   Nỗi xót xa cuối cùng của người cháu thi sĩ ấy là ngày trở lại, ngày chiến thắng trở về, anh không còn được gặp lại người bà thân yêu, mà chỉ gặp một nấm cỏ trên mộ bà:

        Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại

        dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi

        khi tôi biết thương bà thì đã muộn

        bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi.

3. Cách thể hiện tình thương đối với bà của tác giả có nét khá đặc biệt.

   Trong bài Bếp lửa, nhà thơ Bằng Việt thể hiện tình cảm dành cho bà bằng việc làm sống lại những hồi ức thiêng liêng, cảm động về tình bà cháu. Tình cảm ấy được thể hiện qua tiếng tu hú tha thiết, qua hình ảnh bếp lửa bập bùng:

        Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
       
        Rồi sớm rồi chiều bếp lửa bà nhen
        Một ngọn lựa lòng bà luôn ủ sẵn 
       
        Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
       
        Nhóm dậy cả những tâm tình nuôi nhỏ.

   Nét độc đáo trong cách thể hiện tình cảm đối với bà của Nguyễn Duy là bộc lộ trực tiếp, những kí ức ùa về dào dạt rất chân thành, không che đậy dưới bất kì hình ảnh biểu tượng nào. Mặt khác, nhà thơ bày tỏ tình cảm đối với bà bằng những lời thơ như tự trách mình, như ăn năn, hối lỗi khi nhớ về một thời vô tâm, vụng dại đã qua chưa kịp làm gì để thương và đền đáp công ơn của bà, lời thơ rưng rưng đau nhói lòng người:

        “khi tôi biết thương bà thì đã muộn

        bà chỉ còn là một năm có thôi.”

Nguồn website giaibai5s.com

Tuần 12: Đọc thêm: Đò Lèn – Nguyễn Duy
Đánh giá bài viết