I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tác giả

– Kim Lân (1920 – 2007) tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở Tiên Sơn, Bắc Ninh. Ông là cây bút truyện ngắn nổi tiếng.

– Thế giới nghệ thuật của Kim Lân chỉ tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Kim Lân bắt đầu viết truyện từ năm 1941, sáng tác của ông thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Sau cách mạng Kim Lân vẫn tiếp tục làm báo, viết văn.

– Những tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962).

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh ra đời

   Vợ nhặt là truyện ngắn rút ra từ tập Con chó xấu xí. Truyện ngắn này có tiền thân là truyện Xóm ngụ cư được sáng tác ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau khi hoà bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.

b. Chủ đề tác phẩm

   Tác phẩm lên án xã hội thực dân nửa phong kiến tàn bạo đã đẩy nhân dân ta vào nạn đói khủng khiếp năm 1945. Chính chuyện anh Tràng tự nhiên nhặt được vợ trước hết là vì đói quá – cũng đủ nói lên sự khủng khiếp của nạn đói.

   – Nhà văn thể hiện một quan niệm nhân đạo sâu sắc, cảm động phát hiện và diễn tả khát vọng của người lao động, cho dù bị đẩy vào tình huống bi đát, phải sống trong sự đe dọa của cái chết vẫn khao khát tình thương, khao khát có một tổ ấm gia đình, luôn hướng về sự sống, luôn hướng về tương lai, mà tương lai này gắn liền với cách mạng.

II. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

1. Bố cục

– Đoạn 1: Từ đầu đến “thành vợ thành chồng”: Tràng đưa người vợ nhặt về nhà.

– Đoạn 2: Từ “ít lâu nay” đến “cùng đẩy xe bò về”: Kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ, nên chồng.

– Đoạn 3: Từ “Tràng chợt đứng dừng lại” đến “cứ chảy xuống ròng ròng”: Tình thương của người mẹ già nghèo khó đối với đôi vợ chồng mới.

– Đoạn 4: Còn lại: Lòng tin về sự đổi đời trong tương lai. 

   Mạch truyện được dẫn dắt hết sức khéo léo. Các cảnh được miêu tả trong truyện đều xuất phát từ tình huống anh Tràng lấy được vợ giữa những ngày đói khủng khiếp.

2. Tình huống truyện độc đáo

   Giữa nạn đói năm 1945, anh Trang thô kệch xấu xí, nghèo xơ xác, lại là dân ngụ cư, không ai thèm lấy, bỗng nhiên nhặt được vợ một cách thật dễ dàng nhanh chóng, ngay giữa đường giữa chợ nhờ mấy bát bánh đúc.

   Tình huống này có tác dụng to lớn làm nổi bật không khí của truyện, tính cách của nhân vật để từ đó khắc hoạ đậm nét nội dung tác phẩm.

   Vì đói nên không có gì quý hơn miếng ăn. Cho nhau miếng ăn khi đói là một nghĩa cử hào hiệp. Bởi thế, chỉ với mấy bát bánh đúc rẻ tiền, Tràng có thể nhặt được vợ. Điều đó chứng tỏ thân phận con người rẻ rúng đến mức bi thảm. Đồng thời chuyện Tràng nhặt được vợ tạo nên ở mỗi nhân vật sự phản ứng khác nhau một cách tự nhiên nhưng tất cả đều chứng tỏ: mặc dù phải đối mặt với cái đói cái chết những người dân ở xóm ngụ cư vẫn hướng đến tương lai, hướng tới sự sống.

   Tình huống oái oăm đó khiến cho mọi người trong xóm ngụ cư này phải ngạc nhiên . (thậm chí cả bà cụ Tứ và chính Tràng cũng ngạc nhiên). Mọi người vừa vui vừa lo lắng cho anh. Họ nói chuyện với nhau, lo lắng cho tương lai của vợ chồng Tràng: “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống được qua cái thì này được không?”

   Đây là tình huống độc đáo, giàu ý nghĩa, có tác dụng làm nổi bật giá trị tư tưởng của tác phẩm: Trong cảnh đói khổ con người vẫn yêu thương đùm bọc lẫn nhau. .

3. Giải thích nhan đề Vợ nhặt 

   Vợ nhặt là vợ theo không, không cưới xin, không lễ nghi. Thứ vợ do nhặt được một cách ngẫu nhiên. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng “nhặt” vợ.

   Thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác rơi vãi bên đường mà người ta có thể nhặt được một cách dễ dàng ở bất kì đâu, bất kì lúc nào. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh. Gia đình Tràng từ khi có người vợ nhặt”, mọi người trở nên gắn bó, chăm lo, thu vén cho tổ ấm của mình. Giá trị nhân bản của Vợ nhặt là lời kết tội danh thép giặc Pháp và Nhật đã gây ra tình cảnh trên cho người nông dân.

   Nhan đề vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945, vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng hướng tới cuộc sống tốt hơn và niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.

4. Niềm khát khao tổ ấm gia đình của nhân vật Tràng

a. Tâm trạng của Tràng khi nhặt vợ và đưa vợ về nhà

– Lúc đầu: Tràng tỏ ra lo lắng trước cảnh nghèo: “thóc gạo này mà còn đèo bòng”.

– Sau đó: Anh chấp nhận đưa người phụ nữ về nhà ra mắt mẹ với một tâm trạng lâng lâng hạnh phúc, ngượng nghịu, bối rối.

+Nét mặt “phớn phở”.

+Hai “mắt sáng lên lấp lánh”.

+ Miệng “tủm tỉm cười một mình”.

⇒ Khởi đầu trong Tràng có một sự thay đổi về tâm lý và tình cảm.

b. Thời gian chờ đợi để ra mắt

– Ngỡ ngàng, lo lắng, đượm buồn: “Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ… Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?… đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như … không phải thế…”.

– Hồi hộp, nôn nao: “Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ… Hôm nay sao u về muộn thế! Làm tôi đợi nóng cả ruột.”

– Nhẹ nhõm khi được sự đồng ý của mẹ: “Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi.”

c. Buổi sáng đầu tiên có vợ

– Tâm hồn có những cảm nhận mới mẻ: “Trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”.

– Tràng biến đổi hẳn: “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.”; “Bây giờ hắn mới nên người, hắn thấy có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này.”

– Nhen nhóm niềm tin vào một tương lai tươi sáng: “Trong óc Trăng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới.”

=> Diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng – người đàn ông nhặt được vợ trong nạn đói được nhà văn khám phá, miêu tả vô cùng phong phú mà tinh tế, sâu sắc, phù hợp với quy luật tâm lý. Con người dù sống trong hoàn cảnh nào, dù là vực thẳm của sự đói khát vẫn luôn khao khát yêu thương, hạnh phúc, mái ấm gia đình và luôn hy vọng, tin tưởng vào tương lai.

5. Phân tích tâm trạng buồn vui xen lẫn của bà cụ Tứ

– Khi nghe tiếng reo, nhận thấy thái độ vồn vã khác thường của con, “bà lão phấp phỏng”.

– Khi thấy có người đàn bà lạ ở trong nhà, “bà lão đứng sững lại, càng ngạc nhiên hơn”.

– Khi đã hiểu rõ sự việc, nhiều cảm xúc đan xen trong lòng người mẹ nghèo:

+ Buồn tủi: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi… Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…”; “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”

+ Lo lắng: “… chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.”; “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không…” 

+ Vui mừng: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”; “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên.”

+ Thương xót: “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”

+ Động viên con tin tưởng vào một tương lai tươi sáng: “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”; “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có đàn gà cho xem.”.

   Với nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế, Kim Lân đã đem đến những xúc động sâu sắc cho người đọc về hình ảnh một người mẹ già có tấm lòng nhân hậu, bao dung, có tình mẫu tử cao cả, tiêu biểu cho những phẩm chất của người mẹ nghèo Việt Nam.

6. Nghệ thuật

– Xây dựng tình huống truyện độc đáo.

– Cách kể chuyện tự nhiên, lôi cuốn, hấp dẫn:

+ Cách dẫn dắt câu chuyện tự nhiên, giản dị, chặt chẽ.

+ Khéo léo làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.

– Dựng cảnh chân thật, sinh động, đặc sắc: cảnh chết đói, cảnh bữa cơm ngày đói,…

– Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, bộc lộ tự nhiên, chân thật.

– Ngôn ngữ nông thôn mộc mạc, giản dị, gần với khẩu ngữ nhưng được chọn lọc kĩ, tạo nên sức gợi.

III. LUYỆN TẬP

1. Đoạn văn nào, chi tiết nào của tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân gây cho bạn ấn tượng sâu sắc và xúc động nhất? Vì sao?

   Nhà văn Kim Lân tâm sự “Phần gây xúc động nhất cho tới khi đọc lại truyện là đoạn bà cụ Tứ trở về. Ở đấy tình của người mẹ thật lớn. Bà nhanh chóng hiểu rõ hoàn cảnh và chấp nhận ngay. Bà không chỉ thương con trai mà còn đây lòng thương xót với người .. đàn bà cùng quẫn kia dù hoàn cảnh bà cũng không khá hơn lắm. Đó chính là bản chất nhân đạo trong tâm hồn con người Việt. Đó cũng là chủ đề của câu chuyện” .

– Bà ngạc nhiên trước thái độ trịnh trọng khác thường của người con trai vô tâm tính.

– Khi thấy người đàn bà lạ ngôi ở đầu giường con trai hai lần chào mình bằng u bà thấy mắt nhoèn đi, bà im lặng vì quá ngạc nhiên, hoàn toàn không hiểu đầu đuôi câu chuyện.

– Khi hiểu câu chuyện, bà hiểu ra bao nhiêu cơ sự.

+ Nghĩ về con trai – thương con phải lấy vợ nhặt, nhờ cơn đói khát mới lấy được vợ, về bản thân – thấy tủi vì chưa làm tròn bổn phận của người mẹ lấy vợ cho con, về người chồng đã khuất – thương và tủi cho vong linh chồng không biết mặt con dâu, không được chứng kiến ngày con trai lấy vợ, và về người đàn bà lạ bỗng trở thành con dâu – thương người đàn bà khốn khổ, cùng đường mới lấy đến con trai bà mà không tính đến cưới hỏi.

+ Ngổn ngang bao tâm trạng buồn vui, mừng tủi, và nhất là lo lắng vì nạn đói, lo vợ chồng chúng nó có sống qua nổi cái thời tạo loạn này không – tất cả hoà trong dòng nước mắt nghẹn ngào. 

+ Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ chân thật, logic và rất xúc động. Đó là tấm lòng nhân hậu, bao dung, đầy hi sinh của người mẹ nghèo Việt Nam. 

– Đối xử với nàng dâu mới:

+ Tỏ thái độ gần gũi, thương yêu, chăm sóc nàng dâu mới: “Con ngồi xuống đây! Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”.

+ Lời nói chân tình, dịu dàng, tính toán cùng vợ chồng con chuyện nuôi gà, chuyện ngăn liếp, chuyện tương lai với niềm lạc quan dân dã “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời; Sông có khác, người có lúc” để động viên các con.

+ Buổi sáng hôm sau: bà bảo ban các con, đem niềm vui cho các con, cô động viên các con bằng món chè khoán, đắng chát nhưng đậm nghĩa tình → bà là người mẹ nghèo : nhưng cố gắng giữ nếp nhà.

                                                                     (Theo Diendankienthuc)

2. Phân tích ý nghĩa đoạn kết của tác phẩm

a.Ý nghĩa nội dung

– Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng vừa gợi ra cảnh đói khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng, cả hai đều là những nét chân thực trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ.

– Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân: trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng. 

b. Ý nghĩa nghệ thuật

– Hình ảnh dùng để kết thúc truyện là triển vọng sáng sủa của hiện thực tăm tối, đó là ng lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện.

– Đây là kiểu kết thúc mở giúp thể hiện xu hướng vận động tích cực của cuộc sống được mô tả trong toàn bộ câu chuyện; dành khoảng trống cho người đọc suy tưởng, phán đoán.

IV. MỞ RỘNG KIẾN THỨC

         Phỏng vấn nhà văn Kim Lân về tác phẩm Vợ nhặt

1. Thưa nhà văn, dịch đói năm 1944 1945 đã cướp đi rất nhiều sinh mạng của đồng bào ta. Ở các vùng nông thôn Bắc Bộ, hầu như gia đình nào cũng có người chết đói, anh Ỗ em, vợ chồng, cha mẹ, con cái ly tán khắp nơi. Sự sống của mỗi người bị cái đói đe dọa từng ngày. Trong bối cảnh xã hội đó, truyện Vợ nhặt lại được viết ra thì thật lạ. Một cuộc sống vợ chồng, một nguồn sống cho một mầm sống tương lai tại sao lại được bắt đầu ảm đạm và phấp phỏng như thế?

   Nhà văn Kim Lân: Dịch đói dạo đó thật khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa có người chết đói, vừa có người bỏ đi, dần dần mất hẳn. Tôi tận mắt chứng kiến người chết đói nằm rải rác ở khắp nơi. Khi con người bị đẩy đến bờ vực cuối cùng của cuộc sống thì toàn bộ số phận và tính cách con người họ sẽ biểu lộ ra. Chết đói là một thực tế khốc liệt. Đó là cái chết từ từ, hao mòn dần, quằn quại dần. Tôi được biết nhiều chuyện qua những năm tháng đó. Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ. Có những người đói ngày ngày bới rác tìm một mẩu thức ăn thừa, buổi tối họ lại về nằm cạnh nhau bàn tán về chuyện làng quê, chuyện mùa màng. Có người giữ nề nếp rất nghiêm dù đói khát, con cái đi xin mang phần về cho, ông ta vẫn áo the, đội khăn xếp ngồi giữa nhà để ăn. Có người đói xô vào cướp cám để ăn, bị đánh cũng chịu không đánh lại, họ biết rằng chuyện cướp cám của họ là sai nhưng họ vẫn phải làm vì đói. Nói tóm lại, bị kịch sống của mọi người vào thời điểm đó hầu như giống nhau: Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đau đớn, đồng thời một mặt nào đó nó lại loé lên một tia sáng về đạo đức, danh dự. Truyện Vợ nhặt khai thác khía cạnh sau cùng của cái bi kịch ấy.

2. Cái đói là đề tài của rất nhiều nhà văn. Cái đói trong Vợ nhặt có khác gì những cái đói khác mà các nhà văn thường mô tả?

   Nhà văn Kim Lân: “Cái đói” là mỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời đại. Cho nên đó là một đề tài cũng thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó. Con người phạm tội và làm đủ mọi chuyện dại dột khác chỉ vì đói. Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ.

3. Truyện ngắn Vợ nhặt được viết từ một tình huống có thật trong cuộc sống?

   Nhà văn Kim Lân: Ban đầu tôi viết một truyện dài có tên là Xóm ngụ cư. Tôi viết đến chương thứ V thì dừng lại. Sau khi hoà bình lập lại, tôi và Nguyễn Hồng làm tờ báo Văn. Trong bản thảo Xóm ngụ cư có một đoạn luôn ám ảnh tôi là đoạn viết về những người đói, về những buổi sáng ở vùng quê người ta ra chợ nhặt xác người đi chôn. Tôi viết lại chương đó thành truyện ngắn Vợ nhặt mà không đọc lại bản thảo cũ. Truyện Vợ nhặt hoàn toàn không có thực mà do tôi sáng tạo ra. Không thể có một bà mẹ như thế, một cô con dâu như thế trong đời sống thực. Tôi muốn phân tích tâm trạng và thân phận của con người trong cái hoàn cảnh cùng đường ấy, nơi cuộc sống dường như không còn lối thoát. Tôi muốn hướng họ vào sự sống, sự yêu thương nhau, không phải là sự giành giật nhau. Hoàn cảnh đặc biệt quá nên câu chuyện là lạ đó lại được hiện ra với vẻ chân thật. Vợ nhặt được rút ra từ tập Con chó xấu xí, sau khi in ở tờ tuần báo Văn. Bối cảnh của truyện là khi cái đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng ở ngưỡng cửa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa khốn khổ đó, họ sẽ chứng tỏ số phận và tính cách của mình, đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm tin mới, dù là rất mong manh.

   Dân ngụ cư là dân đi ở đợ, không phải dân gốc nên thiệt thòi đủ thứ. Mở đầu truyện là mẫu hồi ức “trước kia mỗi chiều” có vẻ yên ả nhưng cái hồi ức này quá ngắn, trôi qua quá nhanh, Hiện tại là cảnh đói khát ủ rũ, cảnh những người ăn xin “xanh xám như bóng ma”, cảnh thấy người chết “nằm cong queo bên đường”. Vậy mà một buổi chiều anh chàng Tràng trở về với một:vẻ mặt có “vẻ gì phởn phơ khác thường”, một nụ cười tủm tỉm và “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, bên cạnh lại có người đàn bà rón rén e thẹn. Đó là một sự kiện quá ư lạ lùng giữa lúc người ta chỉ nghĩ đến sự sống – chết.

4. Tràng khi đó có ý thức được việc mình làm?

   Nhà văn Kim Lân: Tràng là anh chàng kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh. Trong thời buổi bấy giờ, hẳn Tràng chẳng dám nghĩ đến chuyện lấy vợ, vì thủ tục cưới cheo ngày đó rườm rà, tốn kém lắm. Vậy mà tự dưng anh chàng lại “nhặt” được vợ. Sự kiện nhặt vợ quá buồn cười. Chỉ là một câu đùa, ai cũng biết là đùa, vậy mà cô kia cũng theo. Điều đó chứng tỏ cô ta cùng đường và sẵn sàng xông vào, bấu víu vào bất cứ cái gì có thể bấu víu được. Còn Tràng, tại sao lại dẫn cô ta về? Vi Tràng là một người nông cạn, không biết tính toán như người khác, cũng không ý thức được về hoàn cảnh của mình. Anh ta chỉ chậc lưỡi, theo đúng cách của người hay “ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”. Đến lúc về tới xóm, trước ánh mắt, thái độ của dân xóm, Tràng mới kịp nhận ra sự thay đổi trong cuộc sống của mình. Anh ta chỉ cảm nhận sự thay đổi, còn ý nghĩa của nó như thế nào thì anh ta chưa thể hiểu.

5. Nhưng nhân vật thứ hai, người đàn bà thì hẳn hiểu hoàn cảnh của mình?

   Nhà văn Kim Lân: Thi đã ở bờ vực. Số phận thi đã rõ ràng và thị hiểu được điều ấy. Cho nên thị đi bên Tràng mà đầu cúi xuống, chiếc nón rách “nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Thị mặc cảm, gần như nỗi mặc cảm của người nhận lời bán mình trước sự chứng kiến của nhiều người khác. Chính thế nên khi đám trẻ con mới đùa một câu thị đã tỏ vẻ khó chịu.

6. Tại sao việc Tràng và người đàn bà ngang qua xóm ngụ cư lại khiến cho những “khuôn mặt hốc hác u tối” từ những hiện nhà xác xơ đột nhiên rạng rỡ hắn lên”? Sự xuất hiện của Tràng và người vợ như thể thổi vào cuộc sống tăm tối tuyệt vọng của họ một luồng sinh khí tươi mát?

   Nhà văn Kim Lân: Trước kia, chiều nào Tràng cũng đi về qua xóm, nhưng hình ảnh: đơn độc của Tràng không gây ra bất kỳ một xao động nào trong đời sống của cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy. Sự biến đổi chốc lát như thế phụ thuộc vào hình ảnh người đàn bà bên Tràng. Mọi người bàn tán và cũng đối phần đoán ra được câu chuyện của Tràng. Họ đoán được bằng chính hoàn cảnh của họ. Việc lấy vợ lấy chồng luôn là một niềm vui và quan trọng, nó chuẩn bị cho một cuộc sống khác, cuộc sống tương lai của đứa con. Nhìn Tràng và người đàn bà, bất chợt họ cũng mơ hồ mơ đến tương lai của chính họ. Tràng đã khiến cho họ tin vào cuộc sống thêm một chút. Nếu họ ý thức được niềm vui của mình trong giây lát đó, họ sẽ nghĩ rằng: “Đó, anh ta không những con sống mà còn nuôi thêm được một người nữa trong hoàn cảnh này. Nhưng niềm vui trôi qua rất nhanh. Một tiếng “ôi chao” và lời than thở đưa họ về thực tại cuộc sống đói khát, cùng quẫn, “họ nín lặng”.

7. Chuyện Tràng “nhặt” vợ là một sự lạ, nhưng mọi người như thể thừa nhận điều đó một cách dễ dàng?

   Nhà văn Kim Lân: Sự kiện đó chỉ gây ra sự tò mò một chút ban đầu thôi. Do hoàn cảnh khắc nghiệt của đời sống, mọi người không còn đủ sức để nhận ra điều đó là ngược đời. Và nó còn được dùng như một cái thước đo vô hình, kiểm lại cuộc sống hiện tại của họ. Những câu chuyện của Tràng nhanh chóng không còn được bàn tán nữa khi họ “cùng nín lặng” hiểu ra số phận khắc nghiệt đang treo lơ lửng trên đầu họ.

8. Khi người ta nhìn vào, bàn tán về mình, Tràng biết thế và lấy làm “thích ý lắm, và hắn vênh vênh “tự đắc với mình”. Có lẽ đến lúc này Tràng mới hiểu rằng hành động của mình pha một chút “anh hùng”, “kiêu bạc” trong cuộc sống khó khăn hiện tại. Nhưng khi đi hết xóm ngụ cư thì Tràng lại đâm ra lo sợ, Tràng sợ vì nuôi mình không đủ lại phải “đèo bồng” thêm một người nữa ư?

   Nhà văn Kim Lân: Tràng không có nỗi sợ đó. Nỗi sợ của Tràng là nỗi sợ phải “một mình” đối diện với người đàn bà. Khi đi từ chợ tỉnh về, ngang qua xóm ngụ cư, những ánh mắt, tiếng cười của người khác đã làm cho Tràng bớt cảm thấy sự có mặt của người đàn bà. Nhưng khi còn hai người ở “con đường sâu thăm thẳm” vắng vẻ thì rõ ràng người đàn bà kia là toàn bộ cuộc sống bên ngoài đối với Tràng. Tràng phải tìm hiểu nó. Tràng ý thức đầy đủ.sự có mặt của thị là dành cho Tràng. “Hắn định nói với thị một vài câu rõ tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào tay kia”. Tại sao vậy? Tại vì thực sự người đàn bà đi bên cạnh Tràng còn hoàn toàn xa lạ với Tràng.

9. Tại sao thì không cảm thấy mà Tràng lại cảm thấy như thế?

   Nhà văn Kim Lân: Tôi có chủ ý không tả tâm trạng của người đàn bà khi đó. Nếu tả kỹ quá thị sẽ mất đi sự “xa lạ” không phù hợp với hoàn cảnh của câu chuyện. Sự yên lặng và xa lạ của thị khiến cho không gian như đọng lại và cho Tràng cảm thấy thị ở thật gần mình. Điều này khiến Trang đột nhiên hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày. Tràng khi đó có lẽ đã quên tất cả, không phải với vẻ bất cần mà là : do hình ảnh thị đã dần xâm nhập và chiếm trọn cõi lòng của Tràng. Ở người đàn ông nghèo khổ” này cuộc sống đột nhiên “mới mẻ” và lạ lùng. Đó là cảm giác có thật, nó “mơn man khắp da thịt”. Có một điều thật ý nghĩa đang diễn ra với Tràng “Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên”.

10. Nhưng tên, hoàn cảnh, quê quán, cha mẹ thì Tràng đều chưa biết. Người đọc có cảm giác là “tình nghĩa” của Tràng đối với người đàn bà là không thật?

   Nhà văn Kim Lân: Người Việt rất coi trọng tình nghĩa, tuy nhiên để có tình nghĩa người ta cần phải có thời gian để thấu hiểu nhau. Đặt trong hoàn cảnh khốn khó lúc bấy giờ, khi mỗi người cần đến sự giúp đỡ nhiều hơn của người khác về cả vật chất lẫn tinh thần, thì Tràng là cái phao cuối cùng, là tất cả hy vọng của người đàn bà. Vậy cái nghĩa của Tràng là sự gắn kết giữa con người với con người trong một hoàn cảnh cấp bách. Hơn nữa đó còn là “nghĩa” của một người đàn ông nghèo không đủ khả năng lấy vợ bỗng dưng được một người đàn bà “ung thuận về không làm vợ. Và khi cảm thấy có “tình nghĩa” với người đàn bà thì sự đối diện của Tràng với chị ta không còn đáng Sợ nữa.

11. Hoàn cảnh đã xô đẩy người đàn bà đến với Tràng. Vậy giữa họ liệu có tình cảm thực sự không?

   Nhà văn Kim Lân: Sao lại không. Câu chuyện giữa hai người diễn ra như bất cứ với cặp tình nhân nào. Ban đầu là bắt chuyện vu vơ, rồi trêu chọc nhau. Khi câu chuyện ra chiều “thân thân”, người đàn bà đã “tủm tỉm cười phá đi vẻ mặt cau có, ngượng ngập. Chị ta bắt đầu quen với hoàn cảnh mới. Và khi Tràng đùa “vợ mới vợ miếc” và cười cợt, thị đã “phát đánh đét” vào lưng hắn. Đây là cử chỉ “tỏ tình” của thị đối với ân nhân, nó đầy âu yếm và cũng đáng yêu. Nó làm cho Tràng hạnh phúc. Anh chàng “thích chí: ngửa cổ cười khanh khách”. Cuộc sống thường nhật khốn khổ bị quên lãng. Với Tràng, thị là người đàn bà thứ hai sau mẹ anh yêu thương và cần đến anh. Yêu thương có thể chưa rõ nhưng cần thì đã rõ. Anh ta hớn hở vì điều đó. Riêng với người đàn bà, hiểu hoàn cảnh mình nên cử chỉ “tỏ tình” trên kia vừa hàm chứa sự biết ơn vừa tỏ thái độ ưng thuận.

12. Một lần nữa sự khắc nghiệt của cuộc sống phá tan niềm vui mong manh của hai người, tiếng chó sủa váng lên làm Tràng thẹn thùng và xấu hổ, như thể có ai đó nhòm vào hạnh phúc của anh. Hình như Tràng hiểu ra rằng anh ta đang xây dựng hạnh phúc của mình trên nền một cuộc sống thật bất trắc và khốn đốn?

   Nhà văn Kim Lân: Đúng là anh ta có cảm giác đó. Anh ta phải xua cái cảm giác đó đi bằng cách “nhặt một hòn gạch vung tay ném mạnh một cái”, như thế ném thẳng vào những thách thức đau đớn của cuộc sống. Tràng cảm thấy có lỗi đối với người đàn bà kia về chuyện không đủ tiền cưới xin, lỗi vì chưa xin phép mẹ, lỗi cả chuyện hoàn cảnh gia đình khốn đốn khó có thể cưu mang được thêm người nữa. Nhưng ý nghĩ” này của Tràng chứng tỏ Tràng đã có nhiều tình cảm với thị lắm. Cái mặc cảm ấy bây giờ mới nhận ra khiến Trang thốt lên “Mẹ bố chúng mày cắn gì thế”, “cắn gì thế” là tiếng chó sủa ngay trước cổng nhà Tràng, nơi Tràng phải thực sự đối mặt với tất cả những điều Tràng mặc cảm thấy.

13. Đi đến cổng nhà Tràng người đàn bà nhìn quanh và “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên nén một tiếng thở dài”. Phải chăng thị thất vọng vì sự nghèo túng thái quá mà căn nhà của Tràng đập vào mắt?

   Nhà văn Kim Lân: Không hẳn tiếng thở dài” ấy là bởi nhìn thấy cảnh nghèo túng xác xơ của nhà Tràng. Thị chắc thừa hiểu và đoán được hoàn cảnh của một người đi kéo xe bò thuê. Thị theo về nhưng trong lòng thì vẫn chưa dứt khoát lắm. Thị theo như một sự liều mình. Nhưng khi đặt chân vào ngõ, khi không thể thêm lần thay đổi được tình cảnh, phải thực sự chấp nhận cuộc sống mới dù cuộc sống đó có thế nào đi nữa, thì một tiếng thở dài và không tránh khỏi.

14. Dẫn thi vào nhà, Tràng tỏ ra bối rối. “Tràng quay lại nhìn thị cười cười” cố tỏ vẻ tự nhiên cho thị và cũng cho cả mình, Tràng nói đùa: “không có người đàn bà nhà cửa thế đấy” Nghe câu đó thị lại “nhếch mép cười nhạt nhẽo”. Có lẽ, thị không hề có ý “khinh thì cái từ “nhà cửa” mà Tràng gán cho túp lều tồi tàn của mình. Vậy thị “nhếch mép” vì điều gì?

   Nhà văn Kim Lân: Thị “nhếch mép” nhạt nhẽo vì ý khác. Thị tủi cho cái thân phận của thị, thân phận theo trai vì đói: thị biết thị theo Tràng chỉ vì đói và như thế không xứng đáng gì với tư cách người đàn bà trong gia đình Tràng vừa gán cho.

15. Nhưng Tràng lại bối rối thật sự, Tràng sợ mất thị do hoàn cảnh của mình ư?

   Nhà văn Kim Lân: Đúng thế. Ở đây diễn ra một tình cảnh khá lạ lùng. Tràng “nhặt” được một người đàn bà nhưng rồi lại sợ mất thị. Cảnh nghèo đói đã hiện lên rõ ràng. Tràng thấy có tội vì đã che giấu mà không thể kể cho thị nghe trước. Sự im lặng của thị, nỗi mặc cảm của thị Tràng không hiểu nổi. Hơn nữa Tràng không thể tự quyết được tất cả mọi việc. Còn ý kiến của bà cụ Tứ nữa chứ. Liệu mẹ có đồng ý không? Sự chờ đợi mẹ về thật nặng nhọc với Tràng. “Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc” rồi “lấm lét bước vội” ra sân. Tràng sợ rằng người đàn bà sẽ bất ngờ từ chối không làm vợ Tràng nữa. Tràng không dám trở lại nhà mà chỉ luẩn quẩn ở sân, ở ngõ. Một lần nữa, Tràng sợ đối diện với thị, nhưng không phải vì sự “xa lạ” như trước mà sợ sự “đột nhiên từ chối”.

16. Khi viết, ý nghĩa ấy có lúc loé lên trong đầu ông không? Thị cũng có thể bỏ Tràng để đi ăn xin hay “theo” một kẻ khác khá hơn chứ?

   Nhà văn Kim Lân: Không bao giờ. Thị đã có sẵn mặc cảm về thân phận mình cho nên đã chấp nhận hoàn cảnh sống với đôi mắt vô hồn nhìn “bần thần” đâu đó. Thị chỉ dám ngồi ở mép giường. Sự “ngồi mớm ở mép giường” và hai tay vẫn không rời cái thúng, chứng tỏ thị hơn ai hết hiểu rõ số phận của mình.

17. Trong tâm trạng bồn chồn của Trang và sự tủi thân câm lặng của cô vợ, việc bà cụ Tứ trở về đã xua tan được không khí bế tắc. Tràng vui vẻ hẳn, còn người đàn bà lạ cất một câu chào ấp úng: “U đã về ạ”. Bà cụ Tứ có ngỡ ngàng chút ít, nhưng bà cũng đồng ý chóng vánh. Không thấy bà lục vấn hỏi han gì con trai, điều mà các bà mẹ thường làm. Vậy trong mạch truyện, sự đồng ý nhanh chóng của người mẹ có quá gượng ép?

   Nhà văn Kim Lân: Chúng ta nên hiểu tâm trạng của bà mẹ. Bà cụ Tứ ngay từ khi về đến nhà đã bị ngạc nhiên vì sự vui vẻ và chờ đợi “nóng cả ruột” của con trai mình. Bà càng ngạc nhiên khi có người đàn bà lạ ở trong nhà mà lại đứng ở “đầu giường thằng con”. Người đó lại chào bà bằng u. Cái cảnh đó chưa được giải thích đến nỗi bà cụ tưởng nhầm mình đang mơ thấy cái Đục – cô con gái đã chết hiện về. Và khi Tràng giải thích, bà “nín lặng” hiếu ra mọi chuyện. Bà tủi phận vì đã không xứng đáng là một người mẹ, không lo cho con một cách đàng hoàng như người khác. Hơn cả đứa con, bà hiểu rõ hơn hoàn cảnh của chúng. “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy mình. Mà con mình mới có vợ được” bà nghĩ. Có thế bà hơi ngao ngán về chuyện đó một chút nhưng cảm giác “hàm ơn” đối với người đàn bà là nhiều hơn, người đã giúp bà “lo” cho con trai bà bằng cách làm vợ anh ta. Bà không dám tin rằng “Chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này”. Ý nghĩ về cuộc sống tương lai, và hiện tại gian nan có người đàn bà lạ tham dự vào một cách bà đồng ý với Tràng. Cuộc sống không cho họ đòi hỏi nhiều hơn. Dù họ có vật lộn, có làm khó dễ, có khó tính đòi hỏi điều này điều nọ thì câu trả lời cho họ vẫn là cái đói treo lơ lửng trước mặt.

18. Tương lai của cặp vợ chồng mới này như bóng tối trong con mắt bà. “Bà lão đảm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt”. Xen vào ý nghĩ tối tăm, hiện thực cuộc sống đồng thanh xác nhận điều đó bằng mùi trấu khét lẹt ở nhà những người chết. Bà nghĩ đến cuộc đời bà và ngầm So sánh với cuộc sống của cặp vợ chồng này. Chúng chỉ có một điểm chung là không một chút nào tươi sáng. Bà nhắc “Con ngồi xuống đây”. Lời nhắc này có ý nghĩa với lời chào thuận lòng của người mẹ. Bà thực sự chấp nhận thị là con dâu bà hay do hoàn cảnh mà bà phải chấp nhận?

   Nhà văn Kim Lân: Cuộc gặp đầu tiên đó không có cái ý nghĩa “mẹ chồng con dâu”. Cái tình cảm chiếm nhiều nhất trong lòng bà cụ Tứ là tình cảm “thương xót” một người đàn bà cùng đường. Hơn nữa, có một nỗi “hàm ơn mơ hồ” luôn bám lấy bà. Người đàn bà đã giúp bà cái việc không thể làm cho con trai là lấy vợ cho anh ta.

19. Ở đoạn văn này, tại sao tác giả lại không phân tích tâm trạng của người đàn bà, tâm trạng nơm nớp vì có lẽ bà cụ Tứ sẽ không bằng lòng?

   Nhà văn Kim Lân: Tôi vẫn có ý định không mô tả trực tiếp trạng thái tâm lý của người đàn bà. Tôi muốn qua cách nhìn của Tràng, của bà cụ Tứ để làm nổi bật lên sự hiện diện của chị. Ở đây, mỗi khi thay đổi cách gọi: người đàn bà, thị, ả là một lần “nhân vật vợ mới” thay đổi vị trí trong hai con người kia. Bà cụ không còn giấu cảm nghĩ của mình nữa. Bà kể lể về đám cưới với dăm ba mâm cỗ cho hàng xóm, họ hàng, nhưng “nhà nghèo” và “năm nay thì đói to” nên chỉ cần “chúng mày hoà hợp là u mừng”. Sự thành thật xen lẫn nỗi đắng cay khiến bà khóc. Bà khóc vì lo cho cái hạnh phúc mong manh của con trai khó có thể giữ nổi trong cuộc sống đói khổ này.

20. Tràng hồi hộp, háo hức chờ mẹ và khi bà cụ Tứ đồng ý, “Tràng thở đánh phào một cái”, như vừa trút hết gánh nặng. Như vậy là Tràng chính thức có vợ. Nhưng Tràng có hiểu được những giọt nước mắt của mẹ?

   Nhà văn Kim Lân: Tràng hiểu bà mẹ chỉ nhìn thấy ở việc mình có vợ nhưng viễn cảnh tăm tối. Đó chính là điều đặc sắc của Tràng. Tràng tin tưởng ở mình, tin tưởng ở những điều tốt đẹp nảy sinh từ lòng mình. Những điều đó không thể có một kết cục tệ hại được. Có thể là ý nghĩ nhất thời nhưng Tràng phải nhắc nhở mẹ và vợ về điều này.

21. Và ngọn đèn Trang thắp lên đã an ủi cả mấy người?

   Nhà văn Kim Lân: Tràng “hầm hầm bước vào” và “đánh diêm đốt đèn”. Hành động kiên quyết tạo ra một hình tượng “Ngọn đèn tỏa sáng căn nhà tối tăm”. Tại sao Tràng không thắp đèn ngay khi về nhà? Bởi Tràng chỉ thắp khi phải củng cố niềm tin dù là nhỏ nhoi cho người khác. Ngọn đèn vừa mang biểu tượng cho một tương lai tươi sáng, vừa liên kết gắn bó ba người lại với nhau – ba con người đói rách. Ngọn đèn là niềm yêu thương, cảm thông lẫn nhau để cùng vượt lên trên số phận buồn thương của họ. Và khi thấy sáng, bà lão “vội vàng lau nước mắt”. Rõ ràng là căn nhà và trong lòng bà lão đều tôi như nhau. Anh sáng như một lời hứa quyết tâm của người con trai gửi đến bà mẹ. Dầu đắt thế nhưng bởi có vợ mới nên con trai bà cũng mua được cơ mà. Tuy nhiên đèn sáng lên bà cũng chỉ “uể oải” đứng dậy đi nằm. Cái rạng rỡ của ánh sáng cũng chỉ là một viễn cảnh quá xa.

22. Ánh sáng soi rõ lòng bà mẹ và một lần nữa ngọn đèn tỏa dọi vào cuộc sống chung của đôi vợ chồng mới?

   Nhà văn Kim Lân: Thực tại luôn luôn kéo người ta lại với nó. “Tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ” đã lấy mất không khí lãng mạn ngọn đèn vừa mang đến. Cả hai một lần nữa lại “sượng sùng không biết nói gì. Hình ảnh thực nhất là hình ảnh “ngọn đèn” hạnh phúc tương lai soi gọi họ và kéo dài hai cái bóng trên vách”. Hai cái bóng đó chính là cuộc sống thực của họ. Hai cái bóng lờ mờ, lê thê, khốn khổ. Sự thật trần trụi họ phải tiếp nhận là như thế.

23. Đêm tân hôn của cặp vợ chồng là đêm hạnh phúc. Mọi khó khăn đều tạm thời quên đi. Hai người hưởng cái niềm vui tột cùng mà thiên nhiên trao tặng. Nhưng cái niềm vui ấy được bao quanh bởi “tiếng khóc tỉ tê nghe càng rõ”. Một đêm tân hôn trong tiếng khóc người chết và mùi trấu hun khê nồng. Tràng có cảm thấy hạnh phúc không?

   Nhà văn Kim Lân: Tôi tả đêm tân hôn trong hoàn cảnh đó và để phân tích xem hạnh phúc tột cùng đó có chiến thắng cái đói không. Tràng hạnh phúc. Trong khung cảnh tăm tối và ghê rợn như thế nhưng niềm vui của con người vẫn không mất đi. Sáng hôm sau, Tràng thức dậy rất muộn khi “mặt trời lên bằng con sào”, chứng tỏ niềm hạnh phúc mà anh được nếm trải. Anh ta trở thành một con người khác. Một người chồng thực sự. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt của Tràng và mọi thứ bỗng nhiên thay đổi.

24. Đó là thay đổi thực hay Tràng chỉ cảm thấy thế? 

   Nhà văn Kim Lân: Cuộc sống thay đổi thực dù không nhiều với gia đình ấy. Tràng thấy mọi thứ “mới mẻ, khác lạ”. Nhà cửa, vườn tược được thu vén gọn gàng. Các lu đựng nước đầy ắp. Quần áo cũ được giặt giũ và phơi nắng. Một nếp sống khác bắt đầu xuất hiện. Người làm thay đổi nếp sống ấy là người vợ đang “quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất, Cái âm thanh ấy, ngày thường Tràng cũng nghe nhưng chưa bao giờ gợi cảm như thế. Người vợ mới muốn quét mạnh tay để tạo ra những âm thanh rộn rã khẳng định sự có mặt của mình trong ngôi nhà. 

25. Cảnh tượng đó đã khiến Tràng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Tràng là con, là chồng, Tràng có nhiều trách nhiệm hơn với ngôi nhà. Cái trách nhiệm, cái niềm vui của cuộc sống mới đã khiến cho Tràng có “một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng” và “cũng muốn làm một việc gì để dự phần sửa lại căn nhà”. Tất cả mọi người đều hiểu phải tiến gần nhau hơn?

   Nhà văn Kim Lân: Ở đây tôi không chủ tâm diễn tả cái đói mà là muốn thể hiện cuộc sống của một cặp vợ chồng mới trong nạn đói. Cho nên cuộc sống đói khổ chỉ là cái nền thôi. Tuy nhiên chính vì nó mà niềm vui của cặp vợ chồng luôn bấp bênh. Ở đây có một ẩn ý: Cả ba người đều không quên thực tại và cố gắng của họ là tìm thấy niềm vui trong cuộc sống tối tăm. Cái bữa ăn đầu tiên ba người ngồi ăn chung mang ý nghĩa như bữa tiệc cưới” tội nghiệp. “Giữa cái mẹt rách có độc một chùm rau chuối thái rối . và một đĩa muối ăn với cháo”. Sự tồi tàn của bữa ăn trong tương phản niềm vui của họ. Họ đều “ăn rất ngon lành” và “vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn gia cảnh”. Họ gắn bó nhau và yêu thương nhau hơn. Tràng trở nên ngoan ngoãn và nghe lời mẹ. “Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại hòa hợp thế”. Tầm quan trọng của bữa ăn đầu thật rõ. Nhưng “tiệc cưới” kéo dài không lâu, mỗi người chỉ được hai lưng cháo “lõng bõng”. Màn cuối của bữa hoàn toàn phũ phàng khiến mọi người nhớ đến thực tại khắc nghiệt. Cô dâu đón lấy bát ăn và “đưa lên mắt nhìn” rồi “hai con mắt thị tối lại” vì cảm nhận tận cùng các cơ cực của cuộc sống mới. Nhưng thị đã “điểm nhiên và vào miệng”. Đấy dù sao cũng là lối tốt nhất cho cuộc đời của thị.

26. Nồi cháo cám đã đập tan không khí vui tươi ở phần đầu bữa ăn. “Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau, một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người”. Trong sách Văn học lớp 12, phần được trích giảng cũng dừng ở đoạn này. Câu văn dường như bóc nốt lượt cuối lớp vỏ bên ngoài của cuộc sống để cho cả ba thấy cái “đắng chát”, “cái nghẹn bố trong cổ”. Cuộc sống không báo hiệu một tia hi vọng nào?

   Nhà văn Kim Lân: Thực ra với tứ truyện Vợ nhặt truyện nên kết thúc ở đây. Thậm tâm tôi cũng định thế nhưng do điều kiện của tờ báo bấy giờ, truyện mới được kéo dài ra thêm. Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hy vọng vào tương lai.

27. Thưa nhà văn, đoạn nào trong truyện là đoạn gây xúc động nhất cho riêng nhà văn?

   Nhà văn Kim Lân: Phần gây xúc động nhất cho tới khi đọc lại truyện là đoạn bà cụ Tứ trở về. Ở đây tình của người mẹ thật lớn. Bà nhanh chóng hiểu rõ hoàn cảnh và chấp nhận ngay. Bà không chỉ thương con trai mà còn đầy lòng thương xót với người đàn bà cùng quẫn kia dù hoàn cảnh bà cũng không khá hơn lắm. Đó chính là bản chất nhân đạo trong tâm hồn con người Việt. Đó cũng là chủ đề của câu chuyện. 

Xin cảm ơn ông.

(Kim Lân, Vợ nhặt, in trong Tác giả nói về tác phẩm, Hỏi chuyện các tác giả có tác phẩm giảng dạy trong nhà trường, Nguyễn Quang Thiều chủ biên, NXB Trẻ, 2000).

Nguồn website giaibai5s.com

Tuần 21: Vợ nhặt – Kim Lân
Đánh giá bài viết