Đề 27 – Bình giảng bài Cảm hứng mùa thu (Thu hứng) của Đỗ Phủ.

BÀI LÀM

Phiên âm:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm             
Gian gian ba lãng kiêm thiên dũng  
Tái thượng phong vấn tiếp địa âm    
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ        
Cô chu nhất hệ cố viên tâm               
Hàn y xứ xứ thôi đao xích                  
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.      

Dịch nghĩa:

Sương móc trắng làm tiêu điều cả rừng cây phong
Núi Vu, kẽm Vu hơi thu heo hắt.
Giữa lòng sông, sông vọt lên tận lưng trời
Trên cửa ải, mây sa sầm giáp mặt đất
Khóm cúc hai lần nở hoa lại làm tuôn rơi nước mắt ngày trước,
Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ nơi vườn cũ
Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét
Thành Bạch Đế cao, tiếng chày đạp vải về chiều nghe càng dồn dập.

Dịch thơ:

Lác đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn non hiu hắt khi thu lòa
Lưng trời sống rợn lòng sông thơm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Khóm các tuôn thêm dòng lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
                                       (Nguyễn Công Trứ dịch)

Buồn trước mùa thu là chủ đề ngâm vịnh của thi nhân thời cổ, ở Trung Quốc hay Việt Nam cũng vậy. Trong văn tự Trung Quốc, chữ thu đặt trên chữ tâm thành chữ sầu – mùa thu đậu xuống tâm hồn thành nỗi buồn. Chỉ hai chữ thu hứng đã khái quát chủ đề của bài thơ, của cả chùm thơ tám bài.

Bài thơ này được viết vào mùa thu năm Đại lịch thứ nhất (766). Cảnh thu hiu hắt ở Quỳ Châu, nơi Đỗ Phủ ngụ cư cách xa quê nhà mấy ngàn dặm, đã gợi nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn nhà thơ. Nỗi buồn ấy đã được gửi gắm trong chùm thơ Thu hứng gồm tám bài, đây là bài thứ nhất. Toàn bài thơ có thể chia làm hai phần. Bốn câu trước tả cảnh, mà trong cảnh đượm tình thu. Bốn câu sau thể hiện tình cảm trước mùa thu đất khách. 

Thơ được khởi từ sự đổi màu của rừng phong:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm

(Sương móc trắng làm tiêu điều cả rừng cây phong)

Ẩy là mùa thu. Chỉ một câu mở đầu đã điểm minh đầu đề (làm rõ đầu đề) thu hứng. Hứng ở đây là nỗi buồn được thể hiện bằng cả khung cảnh rừng phong tàn tạ, mà đặc biệt tập trung là ở hai chữ điêu thương. Tỉnh – động từ điêu thương do chính Đỗ Phủ sáng tạo ra để tả cảnh rừng phòng, đồng thời thể hiện nỗi buồn thương của con người. Trong từ vựng Trung Quốc, thông thường người ta chỉ dùng điều tạ, điêu linh, điêu lạc, điêu tàn, chỉ với Đỗ Phủ mới có điều thương (chữ thương thường chỉ dùng cho con người). Rừng phong điêu tàn, lòng người bị thương. Mùa thu đến cho rừng phong tàn tạ, lòng người buồn thương. ấy là thu hứng. Ngoài xa kia là vụ sơn, Vu giáp, là núi non đất Thục, thì:

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm
(Núi Vu, Kẽm Vu hơi thu hiu hắt)

Cả núi non vốn hùng vĩ kia giờ cũng hiu hắt, nhạt nhòa trong hơi thu. Biết làm sao được! Quy luật của thiên nhiên, cảm hứng trong tâm hồn nó là như vậy. Hai câu thơ của liên đầu (thường gọi là phần đề) tả cảnh rừng núi tĩnh tại đượm mùa thu, đượm tình thu. Đó là bằng không gian (rừng núi, hơi sương) mà thấy thời gian (mùa thu).

Hai câu tiếp theo (thường gọi là phần thực) tả cái động của sống trên sông, mây trên ải:

Hàn y xứ xứ tôi đao Xích
Bạch Đá thành cao cấp mộ châm

(Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
Thành Bạch Đế cao, tiếng chày đập vải về chiều nghe càng dồn dập)

Nói đột ngột vì suốt cả sáu câu thơ trước không có một âm thanh nào cả. Người thơ đang chìm lắng trong tấm lòng nhớ nơi vườn cũ, chợt khung cảnh thầm lặng ấy bị phá vỡ bởi âm thanh đặc thù của mùa thu Trung Quốc xưa. Cuối thu trời chớm rét, người ta may áo để ngăn cái rét mùa đông đang sầm sập đến, đặc biệt là may áo gửi người lính nơi biên cương lạnh lẽo. Thời ấy, vải để may áo rét thường dày và rất cứng, người ta phải ngâm nước và đặt trên tảng đá lớn (gọi là châm) rồi dùng chày dập cho sợi mềm ra mới may được, cho nên nơi nơi đều rộn ràng tiếng chày đập vải. Thơ Bạch Cư Dị cũng từng nhắc đến âm thanh ấy:

Thơ đến nhớ chồng ai đập lụa
Gió trăng não lắm đá chày đi!
Tháng tám, tháng chín đêm dài bấy
Ngàn tiếng muốn tiếng không hề ngơi
Mỗi tiếng trắng thêm tơ một sợi
Sáng ra e bạc cả đầu ai
                                        (Nghe tiếng chày đêm)

Đó là âm thanh sinh hoạt nhưng cũng là những tiếng não lòng, vì đã từ bao lâu rồi, nó là âm thanh gợi niềm thương nhớ người thân nơi phương trời giá lạnh. Nó cũng thắc thỏm một nỗi lo âu vì chiến tranh chưa dứt, bao nhiêu người lính còn trấn thủ nơi biên cương, để cho người ở hậu phương phải hối hả may áo , rét gửi ra miền quan ải. Cho nên hai câu kết mà lại là mở ra nỗi âu lo buồn nhớ ấy bắc một nhịp cầu sang Thu hứng bài sau…

Từ cảnh vật đến âm thanh… tứ thơ vận hành thật tự nhiên mà thật diệu. Từ rừng núi, trời đất ngoài xa… thu về trên khóm cúc, lặn vào trong tâm tư. Đó là vận hành của không gian chở vận hành của thời gian. Trời tối dần, tầm nhìn dần thu hẹp và cuối cùng không còn thấy gì nữa, chỉ nghe thấy âm thanh dồn dập của mùa thu giã vào nỗi buồn lo nhung nhớ. Thu cảnh đã chuyển vào thu tâm. Ấy là thu – hứng.

Thông qua cảm xúc trước mùa thu, Ba Thục, Đỗ Phủ thể hiện nỗi lo âu cho đất nước, nỗi buồn nhớ quê hương và nỗi ngậm ngùi, xót xa cho thân phận mình.

Chùm thơ Thu hứng tiêu biểu cho nghệ thuật thơ của Đỗ Phủ, vì vậy xưa nay nó được đánh giá rất cao. Đặc biệt ở bài thơ thứ nhất, tức bài này, mỗi từ mỗi ý đều có sức kinh nhân.

Nguyễn Thị Bích Hải – Bình giảng thơ Đường

Đề 27 – Bình giảng bài Cảm hứng mùa thu (Thu hứng) của Đỗ Phủ.
Đánh giá bài viết