IV. THÀNH CỔ LOA VÀ LỰC LƯỢNG QUỐC
PHÒNG
Câu hỏi: Để tăng cường phòng thủ bảo vệ kinh đô Cổ Loa, MT An Dương Vương đã làm gì? |
Trả lời câu hỏi
Để tăng cường phòng thủ bảo vệ kinh đô, An Dương
Vương đã cho họ xây dựng ở Phong Khê một khu thành
kiên cố, xây dựng lực lượng quân đội lớn, gồm bộ binh và
thủy binh được trang bị nhiều loại vũ khí, đặc biệt là nỏ.
Câu hỏi: Vì sao có tên là Cổ Loa? |
Trả lời câu hỏi
Thành được xây dựng theo hình xoáy trôn ốc nên gọi là
Loa Thành (hay thành Cổ Loa)
Câu hỏi: Em hãy mô tả thành Cổ Loa? |
Trả lời câu hỏi
– An Dương Vương cho xây dựng ở Phong Khê một khu
thành đất lớn mà người sau gọi là Loa Thành hay thành Cổ
Loa. “Thành rộng hơn nghìn trượng như hình trôn ốc nên
gọi là Loa Thành”.
– Thành có ba vòng khép kín với tổng chiều dài chu vi
khoảng 16.000m, chiều cao của thành khoảng 5 – 10m, mặt
thành rộng trung bình 10m, chân thành rộng từ 10 – 20m.
Các thành đều có hào bao quanh, rộng từ 10 – 30m. Các
hào thông nhau, vừa nối với một đầm lớn (Đầm cả) ở giữa
thành Trung và thành Ngoại, vừa nối với sông Hoàng. Bên
trong thành Nội là những khu nhà ở và làm việc của gia
đình An Dương Vương và các Lạc hầu, Lạc tướng. B
– Cổ Loa còn là một khu thành quân sự, phục vụ chiến đấu.
Ở đây có một lực lượng quân đội lớn gồm bộ binh và thủy
binh được trang bị các vũ khí bằng đồng như giáo, rìu
chiến, dao găm và đặc biệt là nỏ. Đầm cả là nơi tập trung
các thuyền chiến vừa luyện tập, vừa sẵn sàng chiến đấu.
Câu hỏi: Vì sao Cổ Loa được xem là một quần thành? |
Trả lời câu hỏi
– Cổ Loa được xem là một quần thành vì: ở đây có một lực
lượng quân đội lớn gồm bộ binh được trang bị các vũ khí
bằng đồng như giáo, rìu chiến, dao găm, đặc biệt là nỏ.
Việc bố trí trong thành là một căn cứ lợi hại, là một vị trí
phòng thủ kiên cố, bảo vệ được sự tấn công từ bên ngoài
vào.
Câu hỏi: Em có nhận xét gì về việc xây dựng công trình thành Cổ Loa vào thế kỉ III-II TCN ở nước Âu Lạc? |
Trả lời câu hỏi
Việc xây thành Cổ Loa đã thể hiện trình độ phát triển của
nước Âu Lạc. Cách bố trí thành Cổ Loa đã thể hiện trí tuệ
tài giỏi của con người thời đó. Đây là một biểu tượng của
nền văn minh Việt cổ rất đáng tự hào của dân tộc ta.
Câu hỏi: Nêu những điểm giống nhau và khác nhau của nhà nước Văn Lang và nhà nước Âu Lạc |
Trả lời câu hỏi
– Giống nhau về tổ chức bộ máy nhà nước
+ Là tổ chức bộ máy nhà nước đầu tiên, còn sơ khai, đơn
giản, vua có quyền quyết định tối cao.
+ Giúp vua cai trị là các Lạc Hầu, Lạc Tướng. Lạc Tướng
đứng đầu các bộ; Bồ chính đứng đầu các chiêng, chạ.
– Khác nhau:
+ Nước Văn Lang đóng đô ở vùng trung du: Bạch Hạc
(Phú Thọ) ngày nay.
+ Nước Âu Lạc đóng đô ở vùng đồng bằng: Cổ Loa huyện
Đông Anh – Hà Nội.
+ Nhà nước Âu Lạc phát triển hơn, có thành Cổ Loa vừa là
kinh đô, trung tâm chính trị, kinh tế, vừa là công trình quân
sự độc đáo bảo vệ an ninh quốc gia, thể hiện trình độ phát
triển cao hơn.
+ Vua An Dương Vương có quyền lực cao hơn vua Hùng,
có quân đội mạnh được trang bị đầy đủ, đặc biệt là “nỏ
thần”.
V. NHÀ NƯỚC ÂU LẠC SỤP ĐỔ TRONG HOÀN
CẢNH NÀO?
Câu hỏi: Nhà nước Âu Lạc sụp đổ trong hoàn cảnh nào? |
Trả lời câu hỏi
– Năm 207 TCN, Triệu Đà đem quân đánh Âu Lạc nhưng
không thể đánh bại được quân ta.
– Năm 179 TCN, sau khi dùng mưu kế chia rẽ nội bộ nhà
nước Âu Lạc, Triệu Đà lại sai quân đánh Âu Lạc. Do An
Vương không đề phòng và lại bị mất tướng giỏi nên thất
bại nhanh chóng. Nhà nước Âu lạc bị sụp đổ.
Câu hỏi: Vì sao quân Triệu bị quân dân Âu Lạc đánh bại? |
Trả lời câu hỏi
– Do tinh thần đoàn kết chiến đấu dũng cảm.
– Do có vũ khí tốt.
– Chủ động đánh giặc.
Câu hỏi: Theo em truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy nói lên điều gì? |
Trả lời câu hỏi
Truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy chỉ là một cách đơn giản
hoá sự thực về âm mưu cướp Âu Lạc của triệu Đà, đó là:
– Không đánh được thì dùng mưu kế.
– Tìm hiểu sức mạnh của Âu lạc.
Sự thất bại của An Dương Vương để lại cho đời sau bài học
là không được chủ quan, phải cảnh giác trước mọi âm mưu
của kẻ thù. Đây là bài học lớn về chống ngoại xâm của lịch
sử dân tộc.
Câu hỏi: Em hãy đọc bốn câu thơ của nhà thơ Tố Hữu nói về bài học rút ra từ sự thất bại của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Triệu Đà. |
Trả lời câu hỏi
“Tôi kể người nghe truyện Mỵ Châu
Trái tim nhầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”.
Câu hỏi: Dựa vào tư liệu và truyền thuyết, em hãy trình bày nguyên nhân thất bại của An Dương Vương trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Triệu Đà. |
Trả lời câu hỏi
– Do Triệu Đà dùng quỷ kế chia rẽ nội bộ nước ta.
– Do An Dương Vương chủ quan mất cảnh giác quá tự tin
vào lực lượng của mình nên đã mắc mưu kẻ thù, nội bộ
không còn thống nhất để cùng nhau chống giặc. Đất nước
rơi vào thời kì đen tối kéo dài hơn 1000 năm.
VI. TƯ LIỆU THAM KHẢO
SỰ TÍCH CỔ LOA VÀ CHUYỆN MỴ CHÂU TRỌNG
THỦY
Sử cũ chép rằng: vua xây thành ở đất Việt Thường rộng
1000 trường xoay quanh như hình trôn ốc, gọi là Loa
Thành, còn gọi là thành Tư Long.
Mới đầu vua xây Loa Thành, xây đến đâu lại bị đổ đến đó.
Vua rất lo bằng ăn chay cầu khẩn rồi lại xây. Đến khi ấy có
vị thần hiện lên
cửa thành. Vua mời vào hỏi, thần rằng: “Đợi Thanh Giang
sứ đến”. Sáng hôm sau, vua dậy ra thành, thấy có con rùa
vàng bơi từ phía đông sông tới xưng là Thanh Giang sứ,
biết nói tiếng người, nói việc tương lai. Vua vui mừng đặt
vào mâm vàng rồi hỏi nguyên do thành bị đổ. Rùa vàng
rằng: “Tinh núi Thất Diệu. Cạnh đó có cái quán, chủ quán
có nuôi một con gà trắng, yêu tinh ấy nhập vào thường hay
hại người đi đường. Yêu khí ngày càng mạnh cho nên có
thể đạp đổ thành. Nếu giết chết được con gà thì thành sẽ tự
đứng vững.”
Nhờ sự giúp đỡ của rùa vàng, thành chỉ xây trong nửa
tháng là xong, vua cảm tạ và xin cho kế sách chống giặc
ngoại xâm. Rùa vàng tuốt móng trao cho và nói: “Quốc gia
yến nguy tự có số trời, người cũng phải đề phòng, khi giặc
đến dùng cái móng đó làm lẫy nỏ bắn vào quân giặc thì
không lo gì nữa”. Vua sai bầy tôi là Cao Lỗ làm nỏ thần,
lấy móng làm lẫy nỏ gọi là nỏ thần Linh Quang móng
vàng.
Năm 207 TCN, Triệu Đà đem quân sang xâm lấn, đóng
quân ở núi Tiên Du, Bắc Ninh. Thục Phán đem quân đến
đánh, Triệu Đà rút về núi Vũ Ninh, sai sứ đến xin hoà, cho
con là Trọng Thuỷ làm con tin, nhân đó cầu hôn. Sử cũ
chép: Đà đến xâm lược, đóng quân ở Bắc Giang, đánh nhau
với vua, vua lấy nỏ thần bắn, Đà thua chạy. Đà biết Vua có
thần nỏ, không địch nổi, mới mưu thông hiếu. Lúc ấy, vua
đem con gái Mi Châu gả cho con của Đà là Trọng Thuỷ.
Trọng Thuỷ dụ dỗ Mị Châu lấy nỏ thần cho xem, rồi ngấm
ngầm làm hỏng lẫy mà đổi đi, rồi nói thác là về Bắc thăm
cha. Khi tạm biệt Mị Châu, Trọng Thuỷ nói rằng: “Ngày
khác ta sẽ đến, vạn nhất hai nước có sự bất hoà thì lúc ấy
làm thế nào để nhận được nhau?”. Mị Châu đáp: “Thiếp có
chiếc đệm bằng lông ngỗng, thường khoác trên mìmh, khi
đi đến đường rẽ sẽ rắc lông ngỗng làm dấu, nhận dấu ấy sẽ
biết nơi thiếp ở”.
Năm 179 TCN, Triệu Đà lại đến xâm lược, Nam quân tan
vỡ, Vua chạy ra biển. Sử cũ viết: Vua không biết lẫy nỏ
thần đã mất, ngồi đánh cờ cười mà rằng: “Đà không sợ ta
có nỏ thần hay sao?”. Quân của Đà kéo sát tới nơi dàn trận,
vua dương nỏ, lẫy nỏ gãy, quân tan vỡ. Vua liền cùng Mị
Châu lên ngựa chạy về phía nam. Trọng Thuỷ nhận ra lông
ngỗng đuổi theo. Vua đến bờ biển hết đường, vội vàng gọi:
“Thanh Giang sứ ở đâu?”. Rùa vàng hiện lên mặt nước nói:
“Người ngồi phía sau ngựa là giặc đấy, sao không giết đi”.
Vua rút gươm toan giết Mị Châu, Mị Châu khấn rằng: “Tôi
một lòng trung tín bị người ta lừa dối, xin hoá thành ngọc
trai để rửa mối thù này”. Khấn xong để cho vua chém chết,
máu chảy xuống nước, con trai ngậm lấy hoá thành ngọc
trai. Vua cầm vân tê bảy tấc nhảy xuống biển chết. Trọng
Thủy tới nơi, thấy Mị Châu chết, khóc rất thảm thương, ôm
xác Mị Châu về chôn ở Loa Thành, đến chỗ Mị Châu
thường tắm gội, thương tiếc quá, bèn nhảy xuống giếng
chết. Người đời sau bắt được hạt ngọc minh châu ở biển
Đông lấy nước giếng này rửa thì ngọc lại càng sáng.
Nguồn website giaibai5s.com