I. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

1. Hoàn cảnh sáng tác: Cuối năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta thắng lợi. Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội sau chín năm kháng chiến gian khổ, trường kì. Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc để ghi lại tình cảm và mối quan hệ gắn bó khăng khít, nghĩa tình nặng sâu của nhân dân Việt Bắc về cán bộ và chiến sĩ cách mạng.

– Trạng thái nhân vật: Trạng thái bâng khuâng, bồn chồn, bịn rịn, lưu luyến khi chia tay.

+ Người ở lại lên tiếng trước và gợi nhắc về những kỉ niệm gắn bó suốt mười năm lăm năm.

                         Mình về mình có nhớ ta

              Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

+ Người ra đi cũng còn trạng thái ấy nên nỗi nhớ không chỉ hướng về người khác mà còn là nhớ chính mình.

+ Lời hỏi đã khơi gợi cả một quá khứ đầy ắp kỉ niệm, khơi nguồn cho mạch cảm xúc nhớ thương tuôn chảy.

– Nỗi nhớ mênh mang, da diết với nhiều sắc thái và cung bậc khác nhau. Trong hoài niệm, nỗi nhớ có ba phương diện gắn bó, không tách rời, nhớ cảnh, nhớ người và nhớ về những kỉ niệm kháng chiến.

– Nhà thơ tạo ra lời đối đáp giữa kẻ ở người đi:

+ Việt Bắc hỏi:

                        Minh về mình có nhớ ta

                Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

                        Minh về mình có nhớ không

               Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn?

+ Anh cán bộ kháng chiến trả lời:

                       “Tiếng ai… hôm nay…”

– Sử dụng từ ngữ diễn tả trong tình yêu đôi lứa, vợ chồng:

+ Mình (trở đi trở lại).

+ Ta.

– Bằng âm điệu ngọt ngào như lời ru trong thể thơ lục bát. Ba biện pháp nghệ thuật trên đây đã đưa người đọc vào thế giới tâm tình đầy ân nghĩa, trải dài trong không gian, thời gian tâm tưởng. 

– Lời của Việt Bắc lên tiếng trước, thể hiện sự nhạy cảm về tâm hồn trước hoàn cảnh đổi thay. Việt Bắc hỏi về thời gian “mười lăm năm ấy”, hỏi về không gian “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Hỏi về không gian và thời gian thường gọi kỉ niệm vừa gắn bó vừa sâu nặng. Nó chứng tỏ người dân Việt Bắc sống gần gũi với thiên nhiên, với những gì rất cụ thể. Lời hỏi của Việt Bắc đã khơi dậy bao kỉ niệm, khơi nguồn cho nỗi nhớ. Không gian và thời gian cụ thể “mười lăm năm” bỗng trở thành không gian và thời gian tâm tưởng.

– Lời anh cán bộ kháng chiến: Chia tay với Việt Bắc, anh cán bộ kháng chiến thấy lòng mình bâng khuâng, xao xuyến. Hàng loạt những từ ngữ gợi tâm trạng: “bâng khuâng”, “bồn chồn”, “tha thiết”. Anh cất lên lời đáp. Lời đáp lại như một câu hỏi “Tiếng ai tha thiết bên cồn”. Biết rồi đấy mà vẫn hỏi. Một tiếng ai gợi ra sự gắn bó của người trong cuộc. Nó như lời giã từ của một người yêu với một người yêu. Hình ảnh “áo chàm” được lấy làm hoán dụ để chỉ người có áo, “áo chàm” màu áo không bao giờ phai nhạt ấy lại là biểu tượng cho tấm lòng son sắt thuỷ chung của đồng bào các dân tộc Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến. Cảm động nhất vẫn là hình ảnh “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Cuộc chia tay không nói nên lời. Nó lưu luyến bịn rịn. Ta cũng chẳng nghe tiếng họ nói những gì với nhau. Chỉ có đôi bàn tay nắm lấy bàn tay và nói giùm tất cả. Tạo ra sự đối đáp, nhà thơ đã dàn dựng được cảnh chia tay. Nhưng đó chỉ là hình thức kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu chính là sự thống nhất của tình cảm trong tiếng nói chung.

– Đó là cách sử dụng ngôn ngữ diễn tả cuộc chia tay. Nhà thơ sử dụng rất sáng tạo đại từ “mình”.

+ “Mình” chỉ bản thân người nói (ngôi thứ nhất, nhưng ở văn cảnh này “mình” còn chỉ đối tượng giao tiếp. Một đối tượng gần gũi, gắn bó, thân thiết, người bạn đời yêu mến. “Mình” đã chuyển sang ngôi thứ hai nhằm diễn tả quan hệ tình yêu đôi lứa, tình vợ chồng. “Mình” được dùng ở nghĩa thứ hai (đối tượng trực tiếp trò chuyện). Nó góp phần tạo ra mối quan hệ gắn bó giữa hai người – Anh cán bộ kháng chiến và đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Ngôn ngữ vừa giản dị, mộc mạc diễn tả tình cảm chân thật, cuộc chia tay bịn rịn, lưu luyến đến bâng khuâng.

– Để diễn tả cuộc chia tay đầy lưu luyến, nhà thơ sử dụng câu thơ lục bát cân xứng, nhịp nhàng phù hợp với tâm trạng bâng khuâng của con người trong cuộc tiễn đưa:

                   Minh về / mình có/ nhớ ta

           Mười lăm năm ấy/ thiết tha mặn nồng.

                  Minh về / mình có/ nhớ không

          Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

               Tiếng ai / tha thiết / bên công

         Bâng khuâng trong dạ / bồn chồn bước đi

               Áo chàm / đa buổi / phân li

        Cầm tay nhau/ biết nói gì hôm nay.

   Sự ngắt nhịp ấy chính là nhịp điệu tâm hồn. Nó tạo ra sự cộng hưởng, đồng vọng của cả người ở, người đi. Đó là nỗi nhớ da diết, mênh mang với thiên nhiên, con người, với cách mạng và kháng chiến.

2. Qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình, vẻ đẹp của cảnh và người Việt Bắc hiện lên:

– Thiên nhiên Việt Bắc:

+ Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp đa dạng theo không gian, thời gian khác nhau (Sương sớm, nắng chiều, trăng khuya, các mùa trong năm).

+ Thiên nhiên trở nên đẹp hơn, hữu tình hơn khi có sự gắn bó với con người (người mẹ địu con lên rẫy, người đan nón, em gái hái măng…).

+ Đoạn thơ “Rừmg xanh hoa chuối đỏ tươi” (…) Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” là đoạn thơ tả cảnh đặc sắc của Tố Hữu.

+ Đoạn thơ được xen kẽ cứ một câu tả cảnh lại một câu tả người vừa thể hiện sự gắn bó giữa cảnh và người vừa làm giảm bớt ấn tư núi rừng.

+ Cảnh vật hiện lên như một bài tứ bình về bốn mùa xuân, hạ, thu, đông), mỗi mùa có những nét đẹp riêng.

– Nhớ về cuộc sống và con người Việt Bắc.

+ Cuộc sống thanh bình, êm ả:

                  Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

            Chày đêm nên cối đều đều suối xa.

+ Cuộc sống vất vả, khó khăn trong kháng chiến:

                  Thương nhau chia củ sắn lùi

            Bát cơm sẻ nữa, chăn sui đắp cùng.

   Cảnh sinh hoạt bình dị của người dân Việt Bắc, Nét đẹp nhất chính là nghĩa tình và lòng quyết tâm đùm bọc, che chở cho cách mạng, hi sinh tất cả vì kháng chiến dù cuộc sống còn rất khó khăn.

3. Khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong chiến đấu, vai trò của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến đã được tác giả khắc họa.

Nỗi nhớ về cuộc kháng chiến và niềm tin của con người.

– Đoạn thơ sau:

                       Nhớ khi giặc đến giặc lùng…

            Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”

                      “Ai về ai có nhớ không… .

          Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…

   Đọc những đoạn thơ này ta bắt nhịp được với âm vang, hình ảnh sống động của khúc ca hùng tráng về cuộc kháng thể hiện thế trận của chiến tranh trong tay. Dựa vào rừng

+ Đó là cuộc kháng chiến thể hiện thế trận của chiến tranh nhân dân. Toàn dân đánh giặc, đánh giặc ngay tại chỗ, đánh giặc bằng tất cả những gì có trong tay. Dựa vào rừng núi để đánh giặc, quân dân đoàn kết:

                          Núi giăng thành luỹ sắt dày

                 Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.

                        Mênh mông bốn mặt sương mù 

                 Đất trời tạ cà chiến khu một lòng.

+ Đó là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Đây là hình ảnh trên đường ra trận:

             “Những đường Việt Bắc của ta… mai lên”.

   Những hình ảnh so sánh: “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Những hình ảnh khẳng định đội ngũ “Quân đi điệp điệp trùng trùng”; những hình ảnh đẹp trong chiến đấu “ánh sao đầu súng”; những hình ảnh khẳng định sức mạnh: “bàn chân nát đá”. Tin vui chiến thắng gắn liền với chiến dịch lớn:

                          Tin vui chiến thắng trăm miền 

                  Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về.

   Nhịp thơ sôi nổi, giọng thơ hào hùng, những hình ảnh gây ấn tượng mạnh mẽ khác hắn ở đoạn trên êm ả, ngọt ngào, Tố Hữu đã truyền đến cho người đọc, người nghe khí thế sôi động của chiến tranh toàn dân mà không phải nhà thơ nào cũng có được. Ở đây Tố Hữu đã kết hợp giọng điệu ngọt ngào của thơ lục bát với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

+ Tố Hữu đã phản ánh cuộc chiến tranh toàn diện:

                      Ai về ai có nhớ không?… 

               Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang…

             Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…

   Ta vừa đánh giặc vừa lo phát triển kinh tế, phát triển văn hoá. Có như vậy mới thực hiện đúng đường lối kháng chiến trường kì gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Ta nói vậy vì ta có niềm tin.

– Tin vào Đảng và Bác Hồ: 

                     Ở đâu u ám quân thù

             Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

                     Ở đâu đau đớn giống nòi 

              Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bên.

   Ở đâu dù u ám do quân thù giày xéo, đốt phá, chém giết hãy hướng về Việt Bắc. Nơi ấy có Trung ương Đảng và Bác Hồ. Câu thơ đã gieo một niềm tin tưởng. Nhịp thơ, lời thơ . đã tạo ra giọng điệu trang trọng, lăng sâu trong niềm tin tưởng vô bờ. Anh cán bộ kháng chiến và đồng bào các dân tộc Việt Bắc và cả chúng ta nữa đều có niềm tin ấy.

• Sử dụng thể thơ lục bát, một hình thức thơ ca dân tộc. Nó giúp phát huy đầy đủ bản chất, tình cảm của con người Việt Nam. Đó là thuỷ chung tình nghĩa, đạo lý uống nước nhớ nguồn.

Những suy nghĩ, tư tưởng tình cảm của con người đất nước ển với đạo lí tình nghĩa cách mạng.

– Tinh nghĩa thuỷ chung, son sắt với căn cứ địa cách mạng:

                        Minh về, còn nhớ núi non

                Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.

                      Minh đi, mình có nhớ mình

              Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?

– Tình nghĩa thuỷ chung gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ, ác liệt:

                  Minh đi có nhớ những ngày

        Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù.

                 Mình về, có nhớ chiến khu

        Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

– Thuỷ chung tình nghĩa, thơ diễn tả lối sống theo đạo lý uống nước nhớ nguồn:

                  Mười lăm năm ấy, ai quên

         Quê hương Cách mạng dụng nên Cộng hoà. 

                   Minh về mình lại nhớ ta

        Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.

Thuỷ chung, son sắt với niềm tin vào Đảng, Bác Hồ:

                 Ở đâu u ám quân thù

        Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi .

                Ở đâu đau đớn giống nòi

        Trông về Việt Bắc mà nuôi chó bền.

– Tình nghĩa thuỷ chung với nhân dân các dân tộc Việt Bắc;

                  Nhớ người mẹ nắng cháy lang

           Địu con lên rẫy, bé từng bắp ngô.

4. Hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc trong đoạn trích:

– Tính trữ tình chính trị: là khúc hát ân tình, thủy chung của những người cách mạng về lãnh tụ, về Đảng và cuộc kháng chiến. 

– Giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết.

– Nghệ thuật bài thơ giàu tính dân tộc: Thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp. Nghệ thuật sử dụng hình ảnh và biện pháp so sánh ẩn dụ quen thuộc của ca dao. Thể thơ lục bát được vận dụng trong một bài thơ dài và nhiều lời thể hiện truyền thống dân tộc để làm sáng tỏ nghĩa tình cách mạng. Thơ lục bát tạo ra âm hưởng thống nhất mà lại biến hoá đa dạng:

+ Tha thiết ở nỗi nhớ.

+ Sôi nổi, mạnh mẽ, hào hùng ở ca ngợi kháng chiến.

+ Trang trọng thiết tha thể hiện niềm tin, biết ơn.

– Lời nói giàu hình ảnh:

+ Thiên nhiên, con người Việt Bắc.

+ Biểu dương lực lượng và sức mạnh.

+ Thế trận của chiến tranh nhân dân.

– Sử dụng nhiều cách chuyển nghĩa truyền thống:

+ Lối so sánh,

+ Lối ẩn dụ.

+ Tượng trưng, ước lệ.

• Ta về, ta nhớ những hoa cùng người,

• Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

• Ở đâu u ám quân thù.

II. LUYỆN TẬP

1. Nêu rõ nét tài hoa của Tố Hữu trong việc sử dụng cặp đại từ xưng hô ta – mình trong bài thơ.

Bài viết tham khảo

   Cặp đại từ xưng hô ta – mình là cặp từ xưng hô quen thuộc trong những câu ca dao, dân ca, mang sắc điệu trữ tình, đằm thắm, mặn nồng của tình cảm mà những đôi lứa yêu nhau dành cho nhau. Ở bài thơ Việt Bắc, viết về một sự kiện mang tầm lịch sử nhưng Tố Hữu đã lựa chọn cách mở đầu bằng một cuộc đối đáp mang âm hưởng dân ca và cách xưng hô ta – mình ngọt ngào đằm thắm. Điều đặc biệt là cách tác giả sử dụng cặp từ ta – mình trong bài thơ không chỉ một lần mà nó trở thành một điệp khúc trở đi trở lại, luyến láy hết sức tài hoa.

   Đoạn đầu bài thơ là lời của người ở lại với người ra đi, thể hiện tình cảm của người dân Việt Bắc với cán bộ kháng chiến trong buổi chia tay:

                      Minh về mình có nhớ ta .

              Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

                        Minh về mình có nhớ không

              Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”.

   Chữ mình ở đây chỉ người ra đi, còn chữ ta để nói tới người ở lại. Tình cảm nhớ thương dồn nén sâu nặng trong chữ mình. Mỗi câu lục trong đoạn thơ chữ mình lặp lại hai lần cùng với nhiều thanh bằng làm nhịp thơ như trùng xuống, khắc khoải, da diết. Người ở lại đặt những câu hỏi tu từ vừa như nhắc nhở người ra đi hãy nhớ về Việt Bắc, vừa thể hiện tình cảm sâu sắc, mặn nồng. Bốn chữ nhớ trong bốn dòng thơ nhắc nhớ về mười lăm năm kháng chiến và khung cảnh Việt Bắc. Cặp từ xưng hô mình – ta đầy tình tứ như xoắn quyện lấy nhau, vì là lời của người ở lại nên nhắc tới mình thì nhiều, nhắc tới ta thì ít. Chữ ta chỉ được nhắc đến một lần như một sự khiêm tốn để cho những ki niệm ùa về trong giây phút chia tay. Trong ca dao Việt Nam, cặp từ xưng hộ mình – ta cũng khá quen thuộc, là cách xưng hô của những đôi lứa yêu nhau. Nhắc đến cặp từ này, người ta thường nhắc đến nỗi nhớ, đến sự gắn bó thủy chung: . .

                   – Nước non một gánh chung tình

            Nhớ ai ai có nhớ mình chẳng ai?

                  – Một đàn cò trắng bay quanh

            Cho loan nhờ phượng cho mình nhớ ta.

                   Minh nhớ ta như cà nhớ nuối

            Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng…

   Những câu thơ lục bát của Tố Hữu vận dụng nhuần nhuyễn cách nói của ca dao, dân ca. Cũng có thể nói đó là một lối tập ca dao mà đọc lên âm điệu thật tha thiết, ngọt ngào. Chất giọng Huế, chất giọng trữ tình thương mến ấy có lẽ chỉ tìm thấy ở tác giả của bài thơ Việt Bắc.

   Đoạn thơ thứ hai của bài là lời đáp lại của người ra đi tạo nên sự cân xứng cho kết cấu đối đáp dân ca. Người ở lại nhớ nhung bao nhiêu thì người ra đi bâng khuâng, bồn chồn, lưu luyến bấy nhiêu:

                       Tiếng ai tha thiết bên cồn

              Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

                        Áo chàng đưa buổi phân li

             Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

   Chữ ta, chữ mình không xuất hiện nhưng thực ra đã hóa thân vào tiếng ai tha thiết bên cồn, vào hình ảnh áo chàm giản dị mà đầy nghĩa tình cách mạng. Có cả mình, cả ta cái cầm tay như một nốt lặng của tình cảm trong buổi phân li. Ở đây, chỉ có thứ ngôn ngữ không lời của ánh mắt mới đủ sức chứa đựng nỗi niềm của người đi, kẻ ở.

   Sang đến đoạn ba và đoạn bốn cặp từ minh – ta được tác giả sử dụng hết sức tài hoa, luyến láy tạo nhạc tính cho đoạn thơ. Ở đoạn ba, cặp từ mình đi, mình về lặp đi lặp lại sáu lần trong sáu câu lục của đoạn thơ. Mình ở đây vẫn chỉ người ra đi. Và dù là mình đi hay mình về cũng chỉ chung một hành động. Đi là chia tay chiến khu, về là về miền xuôi thủ đô. Nét đặc sắc trong sự lặp lại của cụm từ này là không hề tạo ra sự nhàm chán cho người đọc bởi tiết tấu biến hóa: mình đi – mình về – mình về – mình đi:

                             Mình đi, có nhớ những ngày

                   Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

                             Mình về, có nhớ chiến khu

                   Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

                             Minh về, rừng núi nhớ ai

                   Trám bụi để rụng, măng mai để già.

                             Minh đi, có nhớ những nhà

                   Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

                             Minh về, còn nhớ núi non

                   Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh…

   Và mỗi lần như vậy câu nào cũng gắn với từ nhớ. Người ở nhắc lại những kỉ niệm trong buổi đầu kháng chiến đầy khó khăn gian khổ mà sâu nặng ân tình. Tố Hữu cũng sử dụng triệt để thủ pháp đối trong những câu hát của đoạn thơ này tạo nhịp thơ vừa cân xứng hài hòa, vừa dễ đi vào lòng người. Kết thúc đoạn thơ là ba chữ mình trong một câu thơ độc đáo:

                         Minh đi, mình có nhớ mình

                 Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?

   Chữ mình ở đây vừa để chỉ người ra đi, vừa để nói tới người ở lại trong một sự hòa quyện khăng khít tuy hai mà một. Chữ nhớ trở thành một chiếc cầu nối giữa hai chữ mình càng làm tăng thêm sự da diết nhớ nhung trong tình cảm của người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Ta đã gặp ở đâu đó trong ca dao những cuộc chia tay và biết bao nỗi nhớ của người đi, người về như vậy:

                        Chàng về khuyên bạn nhất tâm

                Trăm năm chỉ có ôm cầm thuyền ai.

                      Chàng về giẫm cội cho bền

               Gió rung mặc gió, em không quên chàng.

   Tình cảm thủy chung son sắt của đôi lứa yêu nhau từ câu ca dao có bao đời nay đã đi vào những vần thơ cách mạng của Tố Hữu sao mà tự nhiên và ngọt ngào đến vậy. Ta có cảm tưởng lời của người ở lại cứ ngân nga dài mãi như sợi dây vô hình vấn vít lấy người ra đi: trong lòng ta, giờ chỉ có mình, sao nỡ ra đi?…

   Không lặp lại cách nói ở đoạn ba, đến đoạn bốn cặp từ mình – ta đắp đổi cho nhau một cách linh hoạt ta với mình, mình với ta tạo thành hai vế cân xứng:

                               Ta với mình, mình với ta

                  Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

                            Minh đi, mình lại nhớ mình

                 Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu… 

   Minh với ta như một đối không thể tách rời, để rồi hòa lại làm một “Mình đi, mình lại nhớ mình”. Đó chính là câu trả lời cho câu hỏi “Minh đi, mình có nhớ mình” ở đoạn thơ trước. Có thể nói sự nhắc lại này tô đậm hơn nữa sự gắn bó không thể tách rời giữa ta và mình, giữa cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc. Cuộc chia tay trở thành khúc hát đối đáp để bày tỏ tình cảm nhớ nhung, lưu luyến. Tình cảm ấy sẽ ở lại trong tim người dân Việt Bắc, và sẽ theo người cán bộ về xuôi. Nhưng dù đi đâu về đâu, tình cảm ấy không bao giờ vơi cạn. Bàn sâu hơn về chữ mình, ta cũng gặp khá nhiều trong ca dao:

                      Bây giờ hỏi thiệt anh Ba

              Còn thương như cũ hay là hết thương?

                    Ban ngày dãi nắng tối lại dầm sương

            Thân em lao khô, mình có nhớ thương hỡi mình?

   Cách sử dụng từ mình của Tố Hữu vừa học tập ca dao, vừa có sự sáng tạo mới mẻ. Ca dao cũng nhắc nhiều tới từ mình trong một câu, nhưng thường hàm ý chỉ một người. Còn với Việt Bắc, chỉ chữ mình thôi có cả ta và mình trong sự thống nhất. . Qua bốn đoạn thơ đầu của bài thơ Việt Bắc, ta thấy cặp đại từ xưng hô ta – mình được tác giả sử dụng khá nhuần nhuyễn, thành thục, tài hoa, lặp lại nhưng không vô vị, luyến láy mà không nhàm chán, thống nhất mà rất linh hoạt. Thể thơ lục bát, phép điệp, phép đối hài hòa… Tất cả tạo nên một cuộc đối đáp đầy tâm trạng giữa người ở lại và người ra đi. Có thể nói đây là một minh chứng rõ nét cho chất trữ tình chính trị, chất dân tộc đậm đà của ngòi bút Tố Hữu. Trong những đoạn khác của bài Việt Bắc, cặp từ ta – mình vẫn được tác giả sử dụng một cách tài tình và khéo léo, tô đậm nghĩa tình của người dân Việt Bắc với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ, khắc sâu nỗi nhớ của người cán bộ khi phải chia tay chiến khu, đồng thời dựng lại một thời kì kháng chiến gian khổ mà hào hùng ở chiến khu Việt Bắc:

                  Ta đi, ta nhớ những ngày

           Minh đây ta đó đắng cay ngọt bùi…

                 Thương nhau, chia củ sắn lùi

          Bát cơm sẻ nữa, chăn sui đắp cùng…

                Ta về, mình có nhớ ta ..

          Ta về, ta nhớ những hoa cùng người…

   Ta – mình là điệp khúc hay nhất, trữ tình nhất trong Việt Bắc – một khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến một thời.

(Theo Trần Tuấn Ngọc – Trường THPT số 2 Bát Xát – xã Bản Vược, Bát Xát, Lào Cai)

2. Chọn trong đoạn trích hai đoạn tiêu biểu.

– Một đoạn về vẻ đẹp của cảnh và người Việt Bắc.

– Một đoạn về khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến. Phân tích một trong hai đoạn đó.

a) Phân tích đoạn thơ về vẻ đẹp của cảnh và người Việt Bắc qua đoạn thơ:

                    Ta về mình có nhớ ta
                                   …
              Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Dàn bài gợi ý

Mở bài:

– Giới thiệu vài nét về Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc.

• Giới thiệu đoạn thơ (chép lại).

Thân bài:

– Qua nỗi nhớ hiện lên bức tranh tứ bình về Việt Bắc trong bốn mùa với vẻ đẹp nhiều sắc màu của các loài hoa rừng hoà hợp với bóng dáng người lao động Việt Bắc.

– Câu 1 – 2: Nêu khái quát về vẻ đẹp của Việt Bắc qua hình ảnh “những hoa cùng người”, vẻ đẹp hài hoà, gắn bó giữa thiên nhiên và con người.

– Câu 3 – 4: Bức tranh mùa đông với nến cảnh là màu xanh của núi rừng bạt ngàn, nối bật lên là màu đỏ tươi của hoa chuối. Không gian của cánh mở rộng hơn theo chiều cao với hình ảnh ánh nắng phản chiếu lấp lánh trên “dao gài thắt lưng” của người lao động trên đèo cao. Cảnh mùa đông ở đây không lạnh lẽo, tàn lụi mà đầy ánh sáng, ấm áp.

– Câu 5 – 6: Bức tranh mùa xuân mang vẻ đẹp thanh khiết với “mơ nở trắng răng”.

– Câu 7 – 8: Bức tranh mùa hè rộn rã, đầy sức sống với sự phối hợp cả màu sắc và âm thanh đặc trưng của mùa hè “ve kêu” “rừng phách đổ vàng”.

– Câu 9 – 10: Bức tranh mùa thu thơ mộng với ánh trăng chiếu sáng một khung cảnh yên bình ngân vang tiếng hát. Thấp thoáng trong từng cảnh là bóng dáng người Việt Bắc cần cù, chăm chỉ, miệt mài lao động (người đan nón chuốt từng sợi giang, cô em gái hái măng một mình).

– Đánh giá chung:

+ Sự quan sát tinh tế và tình cảm yêu mến thiết tha đã giúp nhà thơ tái hiện và tạo dựng được những vẻ đẹp khác nhau của Việt Bắc trong những thời khắc khác nhau.

+ Nghệ thuật: thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp, âm điệu ngọt ngào, sử dụng điệp từ “nhớ”, đại từ nhân xưng “mình – ta”; tả thiên nhiên và người hoà hợp gắn bó trong cấu trúc cân đối về hình ảnh, màu sắc (câu 6: cảnh / câu 8: người).

Kết bài:

   Đoạn thơ hay và tiêu biểu cho bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, giúp ta cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc và càng yêu mến “quê hương cách mạng”.

b) Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu về khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến.

                      Những đường Việt Bắc của ta
                                           …
                Vui lên Việt Bắc, đèo De, múi Hồng

Dàn bài gợi ý

Mở bài:

– Việt Bắc là một bài thơ hay của Tố Hữu và là một thành tựu xuất sắc của nền thơ kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954.

– Nội dung cảm xúc của bài thơ là nỗi nhớ – một nỗi nhớ hướng tới nhiều đối tượng cụ thể vừa khác biệt vừa thông nhất với nhau. Ở đoạn thơ sau, nỗi nhớ như xoáy vào những ngày tháng hào hùng của cuộc kháng chiến. Đó là khung cảnh hùng tráng trong kháng chiến của nhân dân. (Trích dẫn thơ)

Thân bài:

Tám câu thơ đầu:

– Nhà thơ vẽ lại sống động hình ảnh những đêm Việt Bắc chuyển quân trong mùa chiến dịch:

+ Chỉ vài nét phác hoạ khung cảnh hùng tráng của cuộc kháng chiến ở Việt Bắc, Tố Hữu đã cho người đọc cảm nhận được khí thế hào hùng, mạnh mẽ của khối đoàn kết toàn dân, toàn diện, sự gắn bó giữa thiên nhiên với con người.

+ Từ “những” đặt ở đầu đoạn thơ mở ra bức tranh hoành tráng một không gian rộng lớn trong những ngày mới chiến dịch Điện Biên Phủ.

+ Từ “của ta” thể hiện ý thức làm chủ của những người tham gia kháng chiến đối với đất nước của mình. Những nẻo đường chiến khu Việt Bắc giờ đây là “của ta”. .

+ Đêm đêm, những bước chân hành quân “rầm rập”, làm rung chuyển cả đất trời, bước chân những người khổng lồ đội trời đạp đất làm nên những kì tích anh hùng.

– Khí thế bừng bừng của quân ta được miêu tả hết sức sinh động:

+ Các từ láy có giá trị tượng thanh, tượng hình: “rầm rập”, “điệp điệp”, “trùng trùng”, biện pháp so sánh “như là đất rung” diễn tả được không khí hồ hởi, sôi sục trong những ngày hành quân ra mặt trận làm nổi bật được sức mạnh cuồn cuộn như thác lũ của quân ta.

+ Đoàn quân ra trận đông đảo, người người lớp lớp, như sóng cuộn “điệp điệp trùng trùng”. Có “ánh sao đấu súng”, có “đỏ đuốc”, có “muốn tàn lửa bay”, có sức mạnh của bước chân “nát đá”.

+ Câu thơ “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” là một tứ thơ sáng tạo, vừa hiện thực vừa mộng ảo. Ánh sao đêm phản chiếu vào nòng súng thép. Ánh sao của bầu trời Việt Bắc, ánh sao lí tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do như soi sáng nẻo đường hành quân ra trận của anh bộ đội.

+ Tuy miêu tả cảnh ban đêm những bức tranh thơ giàu chi tiết nói về ánh sáng: Màu đỏ của “đuốc”, của “muôn tàn lửa bay” gợi một cảnh tượng rực rỡ, hừng hực khí thế hào hùng trong những đêm tiến quân ra chiến trường Điện Biên Phủ.

+ Cách nói thậm xưng “bước chân nát đá” diễn tả sức mạnh đạp bằng mọi gian khó của đoàn người ra hoả tuyến. Bước chân của họ là bước chân của những người đội đá, vá trời, rung chuyên càn khôn, đạp bằng gian nguy làm nên chiến thắng diệu kì, khiến thế giới phải khâm phục.

– Cảm hứng sử thi lãng mạn, hào hùng, ý thơ phóng xa vào viễn cảnh tương lai tươi sáng:

+ Nhìn ánh đèn pha của đoàn xe cơ giới xuyên màn đêm của núi rừng Việt Bắc, tác giả so sánh như tương lai tươi sáng đất nước. Đó là tinh thần lạc quan, phấn khởi, tin tưởng ngày chiến thắng đã gần kề.

+ Nhà thơ dùng thủ pháp đối lập để diễn tả cảm hứng tự hào, lạc quan đó. Dù hôm nay và cả nghìn đêm đã qua, dân tộc phải chìm trong thăm thẳm của khói lửa đau thương; tăm tối mịt mùng của chiến tranh, của đói nghèo thì hãy tin rằng ngày mai chúng ta sẽ chiến thắng. Cuộc đời sẽ rộng mở, tươi sáng như ánh đèn pha đang chiếu vào bóng tối, sương mù, mở đường cho xe ta ra mặt trận. Chúng ta có sẽ độc lập, tự do, no ấm.

– Bốn câu thơ cuối: Các địa danh “chiến thắng trăm miền” trên đất nước thân yêu:

+ Liệt kê các địa danh chiến thắng: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê, đèo De, núi Hồng. Mỗi địa danh ghi lại một chiến công.

+ Niềm vui chiến thắng dồn dập, giòn giã: “Tin vui chiến thắng… vui về về từ… vui lên”. Việt Bắc là đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp nên tin vui thắng trận khắp mọi miền đất nước báo cáo về đó, rồi từ đó toả đi trăm ngả.

+Điệp từ “vui” như tiếng mừng thắng trận cất lên trong lòng hàng triệu con người từ Bắc chí Nam.

Kết bài:

– Đoạn thơ làm sống lại không khí hào hùng của một thời lịch sử không thể nào quên.

– Việt Bắc trở thành biểu tượng chung cho sức mạnh kháng chiến, cho linh hồn cách mạng, cho ý chí của toàn dân trong cuộc trường chinh vĩ đại.

– Đoạn thơ giàu chất sử ca thể hiện rõ khả năng tạo được một bức tranh hoành tráng về lịch sử dân tộc, gợi niềm tự hào về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc.

Nguồn website giaibai5s.com

Tuần 9: Việt Bắc (trích – tiếp theo) – Tố Hữu
Đánh giá bài viết