I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tác giả

– Nguyễn Đình Thi quê ở Hà Nội, những sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20 – 12 – 1924. Từ 1931 ông theo gia đình về nước và học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941, ông tham gia Thanh niên Cứu Quốc, 1943 tham gia Văn hóa Cứu Quốc và bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, ông tham dự Quốc dân Đại hội Tân Trào, và được bầu vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội khóa I.

– Từng giữ chức Tổng Thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.

– Ông là một nghệ sĩ đa tài. Không những là nhà thơ, nhà văn, ông còn là một nhà biên soạn kịch, là nhạc sĩ với nhiều ca khúc nổi tiếng. Ông được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn hóa nghệ thuật đợt I (1991).

2. Hoàn cảnh sáng tác

   Tác phẩm viết trong khoảng thời gian từ 1948 đến 1955. Bài thơ là sự tổng hợp của những sáng tác Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948 ), Đêm mít tinh (1949), hoàn thành vào năm 1955 và được đưa vào tập Người chiến sĩ (1956). Đây là thời gian ông trải nghiệm, trưởng thành cùng Đất nước trong kháng chiến chống Pháp lần 2.

II. HƯỚNG DẪN ĐỌC THÊM

1. Bài chia làm hai phần:

– Đoạn 1 (Từ câu đầu đến câu 21): Cảm nhận của tác giả về quê hương đất nước.

– Đoạn 2 (Phần còn lại): Cảm nhận của tác giả về đất nước đau thương, anh dũng, quật cường.

   Tuy gồm nhiều khổ thơ nhưng toàn bài thơ thống nhất với nhau, chung một cảm hứng chủ đạo về đất nước. Mạch cảm xúc có sự vận động và biểu hiện qua mỗi phần của bài thơ, từ hiện tại về quá khứ, rồi lại trở lại hiện tại. Hiện thực và tâm tưởng luôn đan cài với nhau, tạo nên khúc nhạc nhớ thương, day dứt, lưu luyến.. .

2. Hình ảnh mùa thu Hà Nội trong hoài niệm của nhà thơ (từ “Sáng mát trong” đến “lá rơi đầy”) có những điểm gì đặc sắc?

   Khởi đầu bài thơ là những cảm xúc trực tiếp trong một sáng mùa thu, gợi nỗi nhớ về Hà Nội:

                  Sáng mát trong như sáng năm xưa

                  Gió thôi mùa thu hương con mới. 

   Đó cũng là ấn tượng về một mùa thu Hà Nội: không khí mát trong, gió nhẹ thổi và phảng phất mùi hương cốm mới. Câu thơ gợi tả cả không gian, màu sắc và hương vị, “đồng hiện” cả thời gian quá khứ và hiện tại, trộn lẫn hình ảnh trong thực tại và hình ảnh trong hoài niệm. Hương cốm mới là nét đặc sắc của mùa thu Hà Nội. Dường như đó là kết tinh của tất cả hương vị đất trời, cây cỏ mùa thu Hà Nội. Thạch Lam từng viết về cốm, món quà đặc biệt của mùa thu Hà Nội:

“Phảng phất hương vị ngàn hoa co… là thức dâng của cánh đồng bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị mà thanh khiết của đồng quê nội cô.”

                                                      (Hà Nội băm sáu phố phường) 

   Nguyễn Đình Thi đã đưa vào thơ những gì đặc trưng nhất của mùa thu Hà Nội. Điều đó chứng tỏ nhà thơ là người gắn bó sâu nặng, thiết tha với Hà Nội. Nguyễn Đình Thi kể, hồi nhỏ đi học trung học, ông thường lên vùng Hồ Tây ngồi ngắm bầu trời và những áng mây bay. Cảm hứng về bầu trời thu, về những làn gió mát, về hương vị cốm xanh và những dòng sông, ruộng đồng ở đoạn sau của nhà thơ cũng chính là cảm hứng về đất nước.” (Nguyễn Đình Thi – Bài thơ Đất nước) .

   Dòng thơ thứ ba: là một sự chuyển mạch. Thực ra, ở hai câu thơ đầu đã có hình ảnh mùa thu xưa, nhưng đến đây có lẽ không kiềm được dòng hồi tưởng nên lời thơ như buột phát ra: Tôi nhớ những ngày thu đã xa. Ở đây, còn có một lí do nữa: Trong bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa, vốn là vị trí của câu thơ có hình ảnh đẹp: Cò mòn thơm mãi dấu chân em. Câu thơ mang dáng dấp suy nghĩ tình cảm và tình cảm của một trí thức Hà Nội. Thời ấy, có thể không hợp với suy nghĩ của nhiều người trong hoàn cảnh kháng chiến nên Nguyễn Đình Thi đã thay đi. Song, dù sao thì sự chuyển mạch ấy cũng hợp lí, kết nối được hình ảnh toàn bài thơ. Bốn câu thơ kế tiếp miêu tả về mùa thu Hà Nội xưa:

                   Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

                   Những phố dài xao xác hơi may

                   Người ra đi đầu không ngoảnh lại

                   Sau lưng thềm nắng lá rơi đây.

   Mùa thu Hà Nội hiện lên trong hoài niệm của nhà thơ thật đẹp và thơ mộng, về thời tiết, thiên nhiên, không gian (chớm lạnh, xao xác hơi may, phô dài). Đặc biệt, sự cảm nhận của tác giả thật tinh tế và tài hoa khiến cho mùa thu Hà Nội bỗng nhiên biểu hiện bằng hình khối, màu sắc, ánh sáng. Đó là thứ hình khối, ánh sáng, màu sắc của tâm trạng nên khiến lòng người càng thêm xao động. Mùa thu Hà Nội trong hoài niệm của Nguyễn Đình Thi vì thế mang vẻ đẹp của tâm trạng. Cảnh thu thường gọi lên trong lòng người những phảng phất buồn bởi sự thay đổi âm thầm, dịu ngọt, chầm chậm của hương vị, hoa lá, cỏ cây, của đất trời, ánh sáng. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là do nhà thơ nắm bắt được những phút giây kì diệu ấy của mùa thu. Ở đất nước, Nguyễn Đình Thi không chỉ nắm bắt được thần thái của mùa thu Hà Nội, mà có lẽ mùa thu ấy từ lâu đã là một phần trong tâm hồn nhà thơ. Thơ xưa viết về mùa thu thường gắn với chia li, những cuộc tiễn đưa. Thơ thu của Nguyễn Đình Thi vô tình có hình ảnh ra đi ấy và vì thế khiến cảnh thu càng thêm xao xuyến:

                       Người ra đi đầu không ngoảnh lại

                      Sau lưng thêm năng lá rơi đây.

   Đến nay, đã có nhiều ý kiến khác nhau về “người ra đi” trong câu thơ trên. Có người cho đó là người Hà Nội mang tâm trạng, cảnh ngộ rời bỏ thủ đô khi kháng chiến bùng nổ. Lại có ý kiến cho rằng, đó là hình ảnh người lính của Trung đoàn Thủ đô khi rút khỏi Hà Nội… Thực ra, Trung đoàn Thủ đô rời Hà Nội vào mùa xuân sau hai tháng chiến đấu (1947) và cuộc rút lui ấy diễn ra vào ban đêm, dưới gầm cầu Long Biên. Còn nếu gắn việc người Hà Nội ra đi khi kháng chiến bùng nổ càng không đúng vì toàn quốc kháng chiến diễn ra tháng 12 – 1946. Căn cứ vào cảm xúc và hình tượng thì có thể khẳng định việc người ra đi ấy diễn ra trước năm 1945. Người ấy có sự dứt khoát về một lựa chọn (đầu không ngoảnh lại) nhưng trong lòng hơn nhiều vương vấn, luyến lưu nên âm điệu thơ bâng khuâng và cảnh ra đi tuy đẹp nhưng buồn và lặng lẽ. Nguyễn Đình Thi từng thổ lộ: Người ra đi này cũng không phải tác giả hoặc một người cụ thể – người ra đi ấy có thể là đi làm cách mạng, hoặc vì một lẽ khác, vì một bi kịch chung hoặc riêng… Dù sao đấy cũng là một người bỏ nơi ở, bỏ nơi mình đang quen sống để ra đi, người ấy có nhiều nông nổi, nhiều tâm trạng, cho nên ra đi “đầu không ngoảnh lại”, cảnh đẹp vắng vẻ, quyến luyến, lặng lẽ. Người ra đi ấy có một cảnh ngộ nào đấy ta không biết rõ, nhưng đầu anh ta không ngoảnh lại, anh ta thấy cần phải đi, và những cái anh ta bỏ lại sau lưng, hình như không phải của anh ta nữa (Thư trả lời bạn đọc, ngày 14 – 12 – 1983). Dù gì đi nữa thì khổ thơ trên vẫn là những câu thơ đẹp nhất của bài thơ Đất nước. Có những người nói đó là “những câu thơ thật mới mẻ về hình thức, thật mới mẻ về cảm xúc so với thời bấy giờ, và ngay cả bây giờ, nó vẫn nguyên giá trị thơ, như là những giá trị cổ điển vậy”. (Tâm Hoàng, Nhân Dân chủ nhật, ngày 11 – 8 – 1991)

3. Phân tích đoạn thơ từ “Mùa thu nay khác rồi” đến “Những buổi ngày xưa lọng nói về”.

   Từ hoài niệm về mùa thu Hà Nội xưa, tác giả dẫn vào cảm xúc về mùa thu đất nước, trong cảnh hiện tại ở chiến khu Việt Bắc:

               Mùa thu nay khác rồi

               Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

               Gió thổi rừng tre phấp phới

               Trời thu thay áo mới

               Trong biếc nói cười thiết tha.

   Bài thơ có sự chuyển đổi về âm điệu, nhịp điệu những câu thơ ngắn với những thanh nhịp nhanh, rộn ràng; sự phối hợp âm thanh với vần trắc và thanh trắc (phấp phới, áo mới). Cảnh sắc thiên nhiên cũng có sự thay đổi. Vẫn là mùa thu với bầu trời trong xanh, nhưng tươi sáng, nhiều hoạt động linh hoạt, gió thổi, rừng tre phấp phới, trời thu thay áo mới, nói cười thiết tha. Tất cả sự thay đổi ấy hoà nhập với tâm trạng con người (đứng vui), thể hiện niềm vui hồ hởi, phấn chấn, tin tưởng, một vẻ đẹp khoẻ mạnh và tươi sáng. Sự tinh tế trong cảm nhận của nhà thơ thể hiện ở những nét riêng biệt của mùa thu mới: âm thanh ngân xa, vang vọng, ánh nắng như trong sáng hơn và bầu trời cũng cao rộng hơn. Từ cảm xúc về mùa thu đất nước, Nguyễn Đình Thi dẫn dắt đến sự bộc bạch tình cảm mến yêu tha thiết và tự hào:

              Trời xanh đây là của chúng ta
             
              Những buổi ngày xưa vọng nói về.

   Những từ chỉ định (đây) và điệp ngữ (của chúng ta) vang lên dõng dạc, tự hào về quyền làm chủ của đất nước. Ngay cả sự liệt kê (một cách khái quát, bằng những danh từ và tính từ) tiếp tục bổ sung cho niềm tự hào to lớn ấy. Đặc biệt là hình ảnh bầu trời được Nguyễn Đình Thi hết sức chú ý: Trời xanh đây là của chúng ta. Hình ảnh ấy vừa chân thực, lại vừa có ý nghĩa tượng trưng cho đất nước, cho tự do, cho những gì cao đẹp nhất của con người. Trên cái nên không gian rộng mở, được miêu tả từ nhiều mặt, Nguyễn Đình Thi chuyển sang chiều dài thời gian, nói lên đặc điểm, truyền thống và độ sâu lắng của đất nước và con người Việt Nam.

                    Nước chúng ta

                   Nước những người chưa bao giờ khuất.

   Thực ra, quá khứ, truyền thống của dân tộc không chỉ có vậy. Nhưng có lẽ, trong hoàn cảnh của cuộc kháng chiến toàn dân lúc bấy giờ, Nguyễn Đình Thi tập trung nói về truyền thống bốn nghìn năm kiên cường chống giặc ngoại xâm. Câu thơ có sự khái quát rất cao, nhưng lại gợi mở về những lớp người, những thế hệ đã anh dũng hi sinh, sẵn sàng hiến dâng cho đất nước. Tất nhiên, cùng với nhiều truyền thống tốt đẹp khác, tinh thần bất khuất của dân tộc hợp thành tiếng nói bền bỉ, liên tục, tiếp sức cho hiện tại:

              Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

              Những buổi ngày xưa vọng nói về.

   Nguyễn Đình Thi là nhà thơ sớm cảm nhận mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại. . Tiếng nói ấy trở thành hồn thiêng sông núi, tiếp sức, nhắc nhở người đời sau.

4. Những suy tư và cảm nhận của Nguyễn Đình Thi về quê hương, đất nước Việt Nam trong phần cuối của bài thơ.

Mở đầu là một hình ảnh về đất nước trong chiến tranh:

              Ôi những cánh đồng quê chảy máu

              Dây thép gai đâm nát trời chiều.

   Câu thơ giàu giá trị tạo hình, gây ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bằng hình ảnh đập mạnh vào cảm giác. Nhiều người nói, Nguyễn Đình Thi sử dụng thủ pháp ngược sáng (contre soleil) của điện ảnh, trong ánh chiều tà, dây thép gai ở đồn giặc vươn lên tua tủa như đâm vào bầu trời. Nguyễn Đình Thi có dịp thổ lộ, ngày ấy “trên những chặng đường công tác, mỗi buổi chiều khi mặt trời sắp tắt, nhìn về những chân trời xa thấy đồn bốt giặc với những lô cốt, những hàng dây thép gai giăng đầy làm cho chân trời bị xé nát, nham nhở – gây một nỗi tức tối căm giận”. Nên nhớ rằng, đây là một buổi chiều thu, vốn đẹp và nên thơ. Hình ảnh ấy biểu hiện cái nhìn tinh tế và tình cảm chân thật của người viết: chiến tranh tàn phá tất cả, chiến tranh đồng nghĩa với sự huỷ hoại,.. với cái ác. Không ít nhà thơ cùng thời với Nguyễn Đình Thi cũng đã có những cái nhìn tinh tế và đau xót ấy:

                  Có làng trung đoàn ta đi qua

                  Máu đông in dấu giày đinh giặc

                  Nền tro, gạch sém, ngách buồng ai

                  Chiếc tủ đầu giường đang cháy dở.

                                                (Quang Dũng, Những làng đi qua, 1947)

   Trên cái nền của hiện thực ấy là tâm trạng của người chiến sĩ:

                  Những đêm dài hành quân nung nấu

                  Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

   Được đặt ở cùng khổ thơ, tạo thành kết cấu: ngoài/ trong. Hai câu đầu là ngoại cảnh, hai câu sau là tâm trạng. Giữa dòng thơ còn có sự đối xứng khác: những bông, nung nấu/ bồn chồn. Cách đối xứng đó làm bật lên phẩm chất ở người chiến sĩ: tình cảm thường xuyên là căm thù giặc, ý chí giải phóng đất nước và tình cảm có vẻ đột xuất là nỗi nhớ thương người yêu dấu. Sự xử lí mang tính lịch sử của thời kì ấy: tình cảm chung nổi trội hơn tình cảm riêng, nhưng không vì thế mà không có tình cảm riêng. ..

   Năm khổ thơ tiếp tập trung thể hiện suy ngẫm của tác giả về đất nước từ trong đau thương, căm hờn đã đứng lên chiến đấu bất khuất, sẵn sàng hi sinh như những anh hùng của thời đại mới. Tứ thơ phát triển theo hướng suy tưởng nên hình tượng thiên về khái quát, tượng trưng, với những biểu tượng quen thuộc, bát cơm, nước mắt, xiềng xích, chim, hoa… Nhiều câu thơ nặng diễn dịch ý, mang tính chính luận. Ý thơ dựa vào các mảng cảm xúc, tâm trạng, mảng nọ đặt cạnh mảng kia để bộc lộ chủ đề, Nguyễn Đình Thi không dùng các câu nối, trái lại là những hình ảnh rời làm thành khối. Chúng liên kết được với nhau là nhờ mạch cảm xúc, suy nghĩ của tác giả. Điều đáng nói ở những khổ thơ cuối của bài Đất nước là những hình ảnh, những ý mới:

                  Ôm đất nước những người áo vải

                  Đã đứng lên thành những anh hùng

                  Ngày nắng đốt theo đêm mưa giới

                  Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh

                  Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

                  Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

   Về nghệ thuật, đó là cách sử dụng nhiều động từ và trạng từ chỉ các hành động và trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, kèm theo là các trạng ngữ và việc mở rộng thành phần vị ngữ của các câu thơ làm cho trọng tâm câu thơ dồn vào phần vị ngữ:

                  Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

                  Từ những năm đau thương chiến đấu

                  Đã ngời lên nét mặt quê hương

                  Ti gốc lúa bờ tre hồn hậu

                  Đã bật lên những tiếng căm hờn

                  Bát cơm chan đầy nước mắt

                  Bay còn giăng khoi miệng ta

                  Thằng giặc Tây, thằng chúa đất 

                  Địa đè cô đưa lột da… 

   Các câu thơ với hình ảnh tương phản (xiềng xích/ trời; súng đạn/ lòng dân) khi trùng điệp, tiếp nối (khói nhà máy, kèn gọi quân, ngày nắng đốt, đêm mưa giội…) diễn tả những ý tưởng về đất nước được nhà thơ suy ngẫm trong thời gian dài. Bây giờ, những ý tưởng ấy đã trở nên quen thuộc, gần gũi với mọi người, nhưng ở thời kì nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới hình thành, nhất là trong cuộc kháng chiến khốc liệt, đó lại là sự trải nghiệm phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí bằng máu xương của hàng vạn, hàng triệu con người.

   Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh tượng trưng cho sự đứng dậy hào hùng, chói lọi trong khói lửa chiến đấu, từ đau thương căm hờn của đất nước. Bốn câu thơ thể sáu chữ với cách ngắt nhịp đều đặn, dồn dập, âm hưởng dõng dạc, hùng tráng. Hình ảnh này hình thành từ cảnh thực tác giả đã chứng kiến tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954. Nhà thơ giải thích những câu thơ “đã tiếp nhận được những âm vang mạnh mẽ của chiến trường khi hàng dàn đại bác cùng thi nhau bắn vào đầu giặc… Bài thơ đã kết thúc với âm hưởng chiến thắng của chiến trường Điện Biên Phủ”.

5. Nhận xét về độ dài ngắn của các cầu thơ, cách chọn lựa hình ảnh và nhịp điệu trong bài thơ. Và tác dụng của cách viết đó. 

   Các câu thơ dài ngắn xen kẽ, cách lựa chọn hình ảnh sinh động, biểu cảm, nhịp điệu linh hoạt đã giúp Nguyễn Đình Thi dựng được bức tượng đài đẹp, sống động về hình ảnh đất nước trong chiến đấu và chiến thắng. Chiến thắng của dân tộc Việt Nam là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu mồ hôi đã rơi và nỗi đau vò xé. Song chiến thắng ấy cũng là sự kết tinh cao nhất của lòng yêu nước, của tinh thần chiến đấu và khát vọng hòa bình sâu thẳm. Tác phẩm chính là khúc tráng ca hào hùng của dân tộc, từ nô lệ đến tự do, từ buôn thường đến vui mừng, hạnh phúc. Đây chính là sự vận động đẹp đẽ, sâu sắc trong tứ thơ của Nguyễn Đình Thi.

Nguồn website giaibai5s.com

Tuần 10: Đọc thêm: Đất nước – Nguyễn Đình Thi
Đánh giá bài viết