I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

   Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, quê ở Phong Điền, Thừa Thiên – Huế, trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng. Ông thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Thơ của Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, dồn nén cảm xúc, thể hiện tâm tư người trí thức tham gia vào cuộc chiếu đấu của nhân dân. Tác phẩm chính: Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (1971, in 1974), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007),… Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng mà Đảng và nhân dân giao phó.

   Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên (1971), in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đoạn trích Đất Nước (phần đầu chương V của trường ca) là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.

II. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

1. Đoạn thơ thể hiện sự cảm nhận và lí giải của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Chia bố cục, gọi tên nội dung từng phần và tìm hiểu trình tự triển khai mạch suy nghĩ và cảm xúc của tác giả.

Đoạn thơ có hai phần:

– Phần một: Đất Nước trong cảm nhận, nỗi lòng của con người.

– Phần hai: Đất Nước của nhân dân.

   Sự liên kết giữa hai phần chính là mạch cảm xúc xuyên suốt của tác giả về Đất Nước. Đất Nước hiện lên gần gũi, thân thiết, gắn bó với đời sống của con người, được nhìn nhận với chiều dài lịch sử, văn hóa truyền thống. Đó là Đất Nước được viết hoa, Đất Nước trở , thành đối tượng thẩm mĩ, tạo sắc thái tình cảm sâu sắc, ấn tượng với người đọc.

2. Đất Nước – Cội nguồn dân tộc

   Đất Nước có đã lâu rồi từ những “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Đất Nước gắn liền với thuần phong mỹ tục, với cổ tích truyền thuyết:

     Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

     Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

     Tóc mẹ thì bới sau đầu

     Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

– Đất Nước gắn bó với những cái bình dị thân thuộc quanh ta:

    “Cái kèo, cái cột thành tên

     Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã giận, sàng.”

   Đất Nước là “nơi ta hò hẹn”, là “nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, là “nơi anh đến trường” là “nơi em tắm”…

– Đất Nước gắn liền với dân ca “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc…, con cá ngư ông móng nước biển khơi”, gắn liền với huyền thoại “Trăm trứng” thiêng liêng:

            Đất là nơi Chinh về

            Nước là nơi Rồng ở

            Lạc Long Quân và Âu Cơ

            Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.

– Đất Nước trường tồn theo “thời gian đằng đẵng”, trải rộng trên một “không gian mênh mông”. Yêu thương biết bao, bởi lẽ “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tự”, là quê hương xứ sở ngàn đời:

                       Hằng năm ăn đầu làm đâu

               Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

– Đất Nước lâu đời “ngày xửa ngày xưa”, Đất Nước hôm nay, và Đất Nước mai sau. Một niềm tin cao cả thiêng liêng:

           Mai này con ta lớn lên

          Con sẽ mang Đất Nước đi xa .

          Đến những tháng ngày mơ mộng.

– Đất Nước là của mọi người, trong đó có một phần của anh và em hôm nay”. Đất Nước mỗi ngày một tốt đẹp vững bền, trở nên “vẹn tròn to lớn”. Đất Nước hình thành và trường tồn bằng máu xương của mỗi chúng ta. Tình yêu nước là sự “gắn bó và san sẻ”. Đây là một trong những đoạn thơ tâm tình sâu lắng, hay nhất trong bài thơ nói về tình yêu Đất Nước:

             Em ơi Đất Nước là máu xương của mình

             Phải biết gắn bó và san sẻ

             Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

             Làm nên Đất Nước muôn đời.

   Tóm lại, bốn mươi hai câu thơ trong phần 1 nói về nguồn gốc của Đất Nước và sự gắn bó, san sẻ đối với Đất Nước. Ý tưởng sâu sắc ấy được diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ đậm đà màu sắc dân gian, một giọng điệu thủ thỉ tâm tình vô cùng thấm thía, xúc động. Chất trữ tình hòa quyện với tính chính luận.

3. Đất Nước của Nhân dân – Đất Nước của ca dao thần thoại

   Đất Nước hùng vĩ. Giang sơn gấm vóc. Ý tưởng ấy, niềm tự hào ấy đã được nhiều thi sĩ bao đời nay nói đến thật hay, thật xúc động. Nguyễn Khoa Điềm nói về ý tưởng ấy niềm tự hào ấy rất thơ và rất độc đáo. Tượng hình, sông núi gắn liền với những đức tính quý báu, những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam. Là sự thủy chung trong tình yêu. Là truyền thống anh hùng bất khuất, là tinh thần đoàn kết, nghĩa tình. Là khát vọng bay bổng, là tinh thần hiếu học. Là đức tính cần mẫn sum vầy, là chí khí tự lập tự cường. Mỗi tên núi tên sông trở nên gần gũi trong tâm hồn ta:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương.

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thăm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cánh 

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…

   Tính thẩm mĩ, tính hình tượng và tính riêng phong cách được hội tụ qua đoạn thơ này, tạo nên giá trị nhân văn đích thực, làm cho người đọc vô cùng thú vị khi cảm nhận và khám phá. Tên núi, tên sông, tên ruộng đồng, gò bãi… mang theo “ao ước”, thể hiện “lối sống ông cha” là tâm hồn dân tộc: 

   Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

   Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

   Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

   Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

   Mồ hôi và máu của Nhân dân, của những anh hùng vô danh đã dựng xây và bảo vệ Đất Nước:

        Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

        Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

        Cần cù làm lụng

        Khi có giặc người con trai ra trận

        Người con gái trở về nuôi cái cùng con

        Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

        Nhiều người đã trở thành anh hùng.

   Chính Nhân dân đã “giữ và truyền” hạt lúa, đã “truyền lửa”, “truyền giọng điệu”, “gánh tên làng tên xã”…, “đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”. Chính Nhân dân đã làm nên Đất Nước, để Đất Nước là của Nhân dân. Vần thơ hàm chứa ý tưởng đẹp, một lối diễn đạt ý vị ngọt ngào:

        Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

        Có nội thù thì vùng lên đánh bại

        Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

        Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.

– Đất Nước mang sức sống mãnh liệt, tiềm tàng vì Nhân dân đã biết yêu và biết ghét, bền chí và dẻo dai, biết “quý công cầm vàng”, “biết trồng tre đợi ngày thành gậy”, biết trả thù cho nước, rửa hận cho giống nòi mà “không sợ dài lâu”.

– Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cát cao tiếng hát là một biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin tưởng đưa Đất Nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng:

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sống xuôi.

4. Trong đoạn thơ Đất Nước, tác giả sử dụng nhiều chất liệu văn học và văn hóa dân gian từ ca dao, tục ngữ, đến truyền thuyết, phong tục,…

   Các chất liệu này khi đưa vào bài thơ đã được nhà thơ sáng tạo lại, vì thế mà vừa quen thuộc lại vừa mới lạ. Có khi ông lấy một phần của câu ca dao: Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc/ Con cá ngư ông móng nước biển khơi/ Yêu em từ thủa trong nôi,… nhưng phần lớn là sử dụng các hình ảnh mô típ nghệ thuật của văn học văn hóa dân gian để làm nên câu thơ, ý thơ của mình, ngày xửa ngày xưa, miếng trầu, gừng cay muối mặn, đánh rơi chiếc khăn, Chim, Rồng,… 

   Trong đoạn thơ, hầu như câu nào, ý nào cũng phảng phất hình bóng của văn học và văn hóa dân gian. Có điều, các chất liệu ấy đã được tác giả cảm nhận và tái tạo qua cách tư duy liên tưởng mới mẻ, thể hiện với hình thức khá thoải mái của thể thơ tự do. Chính vì thế, đoạn thơ đã có được nhiều hình ảnh và ý tứ tuy mới lạ độc đáo nhưng vẫn hết sức quen thuộc. Nhà thơ đã gợi mở được một không gian nghệ thuật, một không khí, một giọng điệu riêng đưa người đọc vào một thế giới đẹp đẽ, lãng mạn của ca dao, truyền thuyết dân gian nhưng lại không xưa cũ mà trái lại vẫn hiện đại. Việc vận dụng chất liệu văn học văn hóa dân gian ở đây của tác giả đúng như có người đã nhận xét không chỉ là một thủ pháp nghệ thuật, mà chính là thấm sâu của tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. vào trong tư duy nghệ thuật và cảm hứng sáng tạo của nhà thơ.

Nguồn website giaibai5s.com

Tuần 10: Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng) – Nguyễn Khoa Điềm
Đánh giá bài viết