I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tác giả

– Nhà văn Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 10 – 8 – 1920 tại làng Nghĩa Đô ven sông Tô Lịch trong một gia đình làm nghề thủ công. Ông học ở trường tiểu học Yên Phụ.

– Từ 1936 – 1939 ông làm nhiều nghề kiếm sống. Đến năm 1941 chuyển sang viết văn. Từ 1937 ông tham gia cách mạng. Năm 1943 ông gia nhập Hội Văn hoá Cứu quốc sau đó giữ nhiều chức vụ trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Trước 1945 viết chủ yếu về đề tài các loài vật và cuộc sống nghèo khổ của những người dân, thợ thủ công ven ngoại thành Hà Nội.

– Sau cách mạng, tác phẩm của ông chủ yếu xoay quanh các đề tài miền núi Tây Bắc, Việt Bắc trong cách mạng, kháng chiến và xây dựng xã hội chủ nghĩa, sáng tác cho thiếu nhi, chân dung và hồi ức.

– 1996: Được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật.

– Một số tác phẩm tiêu biểu: Dế Mèn phiêu lưu ký (1941), O chuột (1942), Truyện Tây Bắc (1953)…

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác 

– Năm 1942, sau chuyến đi thực tế Tây Bắc, nhà văn đã viết tập Truyện Tây Bắc phản ánh cuộc sống tủi cực của đồng bào dưới ách áp bức bóc lột của thực dân phong kiến và sự giác ngộ cách mạng của họ.

– Tác phẩm có 3 truyện: Chu đất cau mường, Mường Giơn, Vợ chồng A Phủ.

– Tác phẩm thể hiện nhận thức, khám phá hiện thực kháng chiến ở địa bàn miền núi Tây Bắc và tài năng nghệ thuật của Tô Hoài. ..

– Tác phẩm đạt giải nhất về truyện và kí của Hội văn nghệ Việt Nam (1954 – 1975).

– Vợ chồng A Phủ viết về hai chặng đường đời của Mỹ và A Phủ trước và sau khi giác ngộ cách mạng.

b. Cảm hứng sáng tác

– “… Đất nước và con người miền Tây để thương để nhớ cho tôi nhiều quá tôi không thể bao giờ quên […], hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi…”

– Cảm hứng sáng tác là cảm hứng hồi sinh, cảm hứng ngợi ca và nhân đạo, nhưng phần trích chủ yếu là cảm hứng hiện thực và nhân đạo khi lên án hiện thực xã hội bất công và quan tâm đến đời sống, số phận, cá nhân.

II. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

1. Tìm hiểu số phận và tính cách nhân vật Mị.

a. Giới thiệu nhân vật

– Cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. 

→  Việc làm và chân dung đối lập hoàn toàn với cảnh giàu sang của nhà thống lí.

→  Gây sự chú ý ở người đọc, gợi ra số phận éo le của nhân vật.

– Cô ấy luôn cúi mặt, mặt lúc nào cũng buồn rười rượi.

→  Nguyên nhân phải làm con dâu gạt nợ: cha mẹ vay tiền cưới + không trả nổi – bắt dâu gạt nợ.

→  Số phận của người nghèo, người phụ nữ miền núi rất bi thảm, biểu hiện của sự bất công xã hội lúc ấy.

b. Bi kịch thân phận làm đấu trừ nợ

– Lúc đầu bị bắt về làm dâu gạt nợ, đêm nào Mị cũng khóc, giấu lá ngón về gặp cha để tự tử, nhưng thương cha nên thôi.

– Mi bị bóc lột về thể xác, trói buộc về tinh thần. Thân phận không bằng trâu ngựa.

– Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi, cô chấp nhận số phận, sống như đã chết, tê liệt sự sống, khát khao sống, hạnh phúc. Mị lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, bị căn buồng kín mít u tối giam hãm cả thể xác và tinh thần.

c. Vẻ đẹp của Mị

– Là người con hết mực hiếu thảo.

– Mị có nhan sắc và khả năng âm nhạc, đặc biệt là tài thổi sáo và thổi lá.

– Khát khao yêu và cũng đã được yêu.

– Mị khóc là do Mi ý thức được sự đau khổ và khát khao thoát khổ.

– Mị muốn ăn lá ngón tự tử cũng là mong thoát khỏi kiếp nô lệ.

d. Diễn biến tâm trạng và hành động của Mi

* Đêm tình mùa xuân

– Mùa xuân Tây Bắc: gió và rét rất dữ dội… những chiếc váy hoa đem ra phơi… đám trẻ cười ầm…. →  Mùa xuân tràn đầy niềm vui và sức sống, là một mùa xuân đến sớm.

– Tiếng sáo: 8 lần đề cập và 3 lần đặc tả, gợi nhắc quá khứ trong Mị và dẫn bước ý thức của Mị. 

– Mị uống rượu, lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát, như nuốt căm hờn, tủi nhục. Mị say và quên đi thực tại đau đớn. Mị thấy phơi phới trở lại trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước.

– Mị bừng tỉnh, thấy mình còn trẻ. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Một loạt hành động dứt khoát: thắp đèn, quấn tóc, lấy váy, lấy áo…

– Bị A Sử trói nhưng vẫn vùng bước đi => Hiện thực đau đớn kéo Mị lại ngục tù nô lệ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa => Hành động nổi loạn thất bại nhưng từ đây Mị đã thức tỉnh, là cơ sở cho cuộc tự giải phóng lần sau.

* Đêm đông trên núi cao

– “Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn” Mị chỉ biết làm bạn với bếp lửa →  bị đẩy ra khỏi các mối quan hệ, cô đơn, lạc lõng.

– Lúc đầu Mị chỉ thản nhiên hơ lửa, không quan tâm tới sự hiện diện của A Phủ → chai cứng, vô cảm.

– Nhưng đêm A Phủ khóc “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen xám” → nhớ tới cảnh ngộ của mình đêm mùa xuân trước, nhớ tới người phụ nữ đã chết trong nhà này → từ tự thương chuyển sang đồng cảm và thương người.

– Mị cởi dây trói cho A Phủ, xong Mị vẫn hơi hốt hoảng. Cuối cùng “Mị cũng chạy vụt ra… Mị vẫn bằng đi…, đã lăn, chạy, chạy xuống tới chân dốc…”. Mị đã tự giải phóng mình khỏi ngục tù nô lệ.

– Mị vẫn cảm thấy sợ hãi khi muốn cởi trói cho A Phủ, nhưng rồi sự giác ngộ, tự thương và thương người đã chiến thắng.

=> Suy nghĩ, đấu tranh nội tâm nhiều, ít hành động, ít nói, nhưng hành động bí theo logic tâm lý, dứt khoát thể hiện một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.

2. Hình tượng nhân vật A Phủ và sự khác nhau trong bút pháp của nhà văn khi miêu tả nhân vật Mị và A Phủ.

a. Hình tượng nhân vật A Phủ

– Một số phận éo le: Sớm mồ côi cha mẹ (cha mẹ chết trong một trận dịch đậu mùa). Nghèo, không lấy nổi vợ vì phép làng và tục lệ cưới xin ngặt nghèo.

– Phẩm chất tốt đẹp, cá tính mạnh mẽ, một hình ảnh đẹp về người lao động miền núi Tây Bắc:

+ Có ý chí và nghị lực sống, A Phủ đã vượt qua mọi cơ cực để trở thành chàng trai Mông khỏe mạnh, tháo vát, trở thành niêm mơ ước của nhiều cô gái trong bản.

+ Gan góc từ bé, ham lao động, A Phủ không quản ngại những công việc nặng nhọc, khó khăn, nguy hiểm. Không sợ cường quyền, sẵn sàng trừng trị kẻ xấu. Ham sống, yêu tự do, có sức sống tiềm tàng mãnh liệt.

– Một nạn nhân của giai cấp thống trị phong kiến miền núi tàn bạo:

+ Chỉ vì đánh con quan mà bị phạt rất nặng, bị làng “bắt vạ”, trở thành một kiểu “nô lệ” trong nhà thống lí Pá Tra.

+ Chỉ vì lỡ để hổ bắt mất một con bò mà bị cha con thống lí bắt trói, hành hạ dã man, có thể phải trả giá bằng cả tính mạng.

=> Nhân vật A Phủ vừa là bằng chứng sống về tội ác của giai cấp thống trị miền núi Tây Bắc vừa là một hình ảnh đẹp, tiêu biểu của người dân lao động ở một vùng núi cao nước ta.

b. Sự khác nhau trong bút pháp của nhà văn khi miêu tả nhân vật Mị và A Phủ

– Với Mị, tác giả ít miêu tả hành động, dùng thủ pháp lặp lại có chủ ý một số nét chân dung gây ấn tượng sâu đậm, đặc biệt tác giả miêu tả dòng ý nghĩ, tâm tư, nhiều khi là tiềm thức chập chờn…

– Với A Phủ, tác giả chủ yếu khắc hoạ qua hành động, công việc, những đối thoại giản đơn.

3. Những nét độc đáo trong quan sát và diễn tả của tác giả về đề tài miền núi

a. Nghệ thuật miêu tả

   Miêu tả thiên nhiên đặc sắc, miền Tây Bắc hiện ra với cảnh sắc, không khí, sinh hoạt, phong tục riêng.

– Tả cảnh mùa xuân, ngày Tết hấp dẫn với những nét chấm phá, đường nét và màu sắc, tạo hình.

– Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề,…)..

b. Xây dựng nhân vật

– Khắc họa nhân vật: Xây dựng nhân vật sinh động, có cá tính. Mị và A Phủ có thân phận giống nhau nhưng tính cách khác nhau, được xây dựng bằng những bút pháp thích hợp.

– Mị được miêu tả bằng rất ít hành động, lời thoại và bằng một số nét chân dung lặp đi lặp lại, chủ yếu được khai thác dòng cảm nghĩ và tiềm thức chập chờn.

– A Phủ gan góc, bộc trực được thể hiện chủ yếu bằng hành động, đối thoại ngắn, đơn giản, chắc nịch.

c. Nghệ thuật kể chuyện

– Giới thiệu nhân vật bất ngờ, tự nhiên, ấn tượng. Cách kể ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo.

– Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, giàu tính tạo hình, sử dụng thành công cách nói của người dân tộc.

III. LUYỆN TẬP

   Qua số phận hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy phát biểu ý kiến của anh chị về giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Phân tích để:

– Nội dung: Giá trị nhân đạo qua một khía cạnh của tác phẩm (Số phận hai nhân vật Mị và A Phủ)

– Thao tác: phân tích, bình luận, chứng minh…

Gợi ý:

* Giải thích về giá trị nhân đạo trong một tác phẩm văn học. 

– Nhân đạo: yêu thương con người.

– Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn học:

+ Thông cảm với nỗi đau của những kiếp người bé nhỏ, bất hạnh..

+ Phê phán các thế lực gây ra đau khổ cho con người.

+ Ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của họ.

– Vai trò của giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn học: giá trị căn cốt của mọi tác phẩm. Văn học là nhân học. Một tác phẩm chỉ có ý nghĩa khi nó hướng tới con người, biết trân trọng, yêu thương con người, làm cho cuộc sống con người tốt đẹp hơn. “Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. (Bielinski)

* Giá trị nhân đạo trong Vợ chồng A Phủ được thể hiện rõ nét qua số phận hai nhân vật Mị và A Phủ.

– Mị và A Phủ đều là những con người bé nhỏ, khốn cùng trong xã hội miền núi trước cách mạng. (Mị – như con rùa nuôi nơi xó cửa, con dâu gạt nợ, A Phủ – mồ côi, con trâu trả nợ cho thống li) => Tô Hoài miêu tả rõ nét, chân thực số phận đau khổ của hai nhân vật với một giọng văn xót xa, ngấm buồn.

– Thông cảm với số phận của hai nhân vật, nhà văn cũng thể hiện thái độ phê phán cường quyền và thần quyền – hai thế lực gây ra đau khổ cho Mị và A Phủ.

– Quan trọng nhất, nhà văn đã khám phá và miêu tả logic quá trình thay đổi số phận của hai nhân vật. Sức sống tiềm tàng trong con người gặp ngọn lửa cách mạng đã tạo thành bước ngoặt thay da đổi thịt số phận bất hạnh. Từ con người bị bóc lột, bị chèn ép, từ kiếp “trâu” kéo cày trả nợ, từ kiếp “rùa” lùi lũi nơi xó cửa, họ trở thành người tự do, tự chủ.

IV. MỞ RỘNG KIẾN THỨC 

   Phân tích giá trị nhân đạo của vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)
               qua cuộc đời của Mị và A Phủ. 

   Bài làm tham khảo

   Văn xuôi giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) thực sự là một quá trình thí nghiệm, kiếm tìm sự phù hợp giữa nghệ thuật và cuộc sống. Thời gian ngắn, số lượng tác’phẩm còn lại được đến hôm nay không nhiều, nhất là ở hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Chúng ta đặc biệt trân trọng những tác phẩm tinh túy của chặng đường văn học đặc biệt này, trong đó có truyện ngắn xuất sắc Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.

   Vợ chồng A Phủ vừa là thành tựu tương đối hiếm hoi của văn xuôi kháng chiến, vừa ghi dấu sự trưởng thành của ngòi bút Tô Hoài trong sự chiếm lĩnh mảng đề tài – miền núi, một đề tài tới nay vẫn còn nhiều mới lạ với bạn đọc. Truyện được tổ chức chặt chẽ, dẫn dắt rất dung dị, tự nhiên, không cần chạy theo những chi tiết li kì rùng ” rợn mà vẫn có sức hút mạnh mẽ. Có được điều đó chính là nhờ cái nhìn hiện thực sắc bén và chủ nghĩa nhân đạo tích cực của nhà văn. Sự thể hiện cuộc đời hai nhân vật trung tâm từ bóng tối đau khổ, ô nhục vươn ra ánh sáng của tự do và nhân phẩm đã chứng minh rất rõ điều đó.

   Cô Mị xinh đẹp, chăm làm nhưng nghèo khổ, có thể nói “khổ từ trong trứng”. Bố mẹ nghèo, cưới nhau không có tiền phải vay nợ nhà thống lí. Nợ chưa trả hết, người mẹ đã qua đời. Bố già yếu quá, món nợ truyền sang Mị, thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu “gạt nợ”. Mà quan trên đã muốn, kẻ dưới làm sao thoát được! Pá Tra xảo quyệt, lợi dụng tục lệ của người Mèo, cho cướp Mỹ về. Thế là không có cưới hỏi, không cần tình yêu mà vẫn hoàn toàn hợp lẽ, Có ai dám bênh vực Mi! Ngòi bút hiện thực tỉnh táo của Tô Hoài đã phanh trần bản chất bóc lột giai cấp ẩn sau những phong tục tập quán. Cô Mị, tiếng là con dâu nhưng thực sự là một nô lệ, thứ nô lệ người ta không phải là mua mà lại được tha hồ bóc lột, hành hạ. Mị ở nhà chồng như ở giữa địa ngục. Không có tình thương, không sự chia sẻ vợ chồng, chỉ có những ông chủ độc ác, thô bạo và những nô lệ âm | thâm, tăm tối. Dân dân rồi Mị cũng quên luôn mình là con người nữa. Suốt ngày “Mị lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng cúi mặt, thế giới của Mị thu hẹp trong một cái ô cửa sổ “mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Kết quả của hoàn cảnh sống thật chua xót: “Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”, cô nhẫn nhục, cam chịu đến thành tê liệt ý thức: “Là con trâu, con ngựa phải đổi từ cái tàu ngựa nhà này sang tàu ngựa nhà khác, con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết làm mà thôi”. Ai có thể ngờ cô gái trẻ trung, yêu đời ngày nào thổi sáo hồi hộp chờ đợi người yêu, đã từng hái lá ngón định ăn để khỏi chịu nhục, giờ đây lại chai lì, u mê đến thế. Quả thật hoàn cảnh quyết định tính cách. Nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực đã được nhà văn tuân thủ nghiêm ngặt. Sự yếu đuối của kẻ nô lệ, sự vùi dập tàn bạo của bọn bóc lột tất sẽ dẫn đến cảnh ngộ bi đát ấy. Nỗi khổ nhục của cô gái Mèo này thật đã có thể so sánh với nỗi nhục của Chí Phèo khi “Đánh mất cả nhân tính lẫn nhân hình”. (Thật ra, Chí Phèo còn có lúc nghênh ngang, còn dọa nạt được người khác). Nếu xem xét giá trị hiện thực của một tác phẩm như là sự phản ánh chân thật cuộc sống, thì Vợ chồng A Phủ quả là bản cáo trạng hùng hồn về nỗi thống khổ của người phụ nữ miền núi, vừa chịu gánh nặng của chế độ phong kiến, vừa bị trói chặt trong xiềng xích của thần quyền. Tâm lý nơm nớp sợ “Con ma nhà thống l” đã nhận mặt mình từ buổi bị bắt về “Cúng trình ma” là một ám ảnh ghê gớm đè nặng suốt cuộc đời Mi (ngay cả đến khi cô đã trốn thoát khỏi Hồng Ngài). Xem thế đủ thấy bọn thống trị cao tay đến nhường nào trong nghệ thuật “ngu dân” để dễ trị.

   Có thể nói, nhà văn đã không hà tiện cung cấp cho người đọc những chi tiết có giá trị bóc trần bản chất xã hội vô nhân đạo, ở đó thân phận người dân nghèo mới mong manh bất ổn làm sao! Ta sững sờ trước cảnh cô Mị lặng lẽ ngồi trong những đêm đông buốt giá, thằng chồng thì đi chơi về khuya ngứa tay đánh Mị ngã dúi xuống đất. Lại còn có cái hình ảnh nhức nhối phũ phàng: người con gái bị trói đứng vào cột trong buồng tối, bị trói chỉ vì muốn đi chơi Tết như bạn bè. Sự bất lực của Mị tràn theo dòng nước mắt chua chát trên má môi mà không có cách gì lau đi được.

   Những chi tiết như vậy làm cho bức tranh hiện thực nới rộng thêm dung lượng và linh động thêm. Sự xuất hiện của nhân vật chính A Phủ tạo thêm tình huống để hoàn chỉnh bức tranh đó. Cuộc đời nô lệ của A Phủ thật ra là sự lặp lại với ít nhiều biến động chính như cuộc đời Mị. Lý do mà thống lí Pá Tra buộc A Phủ phải thành người ở công không, không phải vì cuộc ẩu đả thường tình của đám trai làng. Vấn đề là ở chỗ pháp luật trong tay ai? Khi kẻ phát đơn kiện cũng đồng thời là kẻ ngồi ghế quan toà thì còn nói gì tới công lý nữa! Vậy nên mới có cảnh xử kiện quái gở nhất trên đời mà chúng ta được chứng kiến tại nhà thống lí. Kết quả là người con trai khỏe mạnh phóng khoáng vì lẽ công bằng mà phải đem cuộc đời mình trả nợ nhà quan.

   Cảnh ngộ của hai nhân vật Mị và A Phủ ít nhiều gợi đến những Chí Phèo, chị Dậu, những chú AQ và những thím Tường Lâm… Đó là những hình tượng nghệ thuật được cô đúc từ chính cuộc đời đau khổ trong xã hội cũ.

   Nhưng nếu nói giá trị hiện thực của tác phẩm Vợ chồng A Phủ mà chỉ phân tích ở . khía cạnh phơi bày, tố cáo, phê phán thông qua những cảnh ngộ bi thảm của người dân lao động là chưa đủ. Nhiều tác phẩm hiện thực phê phán xuất sắc vẫn được xem như có hạn chế trong tầm nhìn và bởi thế, giá trị hiện thực sẽ không được toàn vẹn. Tô Hoài trong khi đào sâu vào hiện thực đã phát hiện ra con đường tất yếu mà các nhân vật của ông đi tới. Sự đè nén quá nặng nề, những đau khổ chồng chất mà bọn thống trị gây ra tất sẽ dồn những kẻ khốn cùng ấy tới sự chống trả và nếu gặp được ánh sáng soi đường, họ sẽ đến được thắng lợi (Tô Hoài có cái may mắn là viết Vợ chồng A Phủ sau Cách mạng tháng Tám). Tất nhiên nhà văn phải có con đường riêng cho sự thể hiện chân thật chân lí đơn giản ấy.

   Lấy việc miêu tả tâm lí làm điểm tựa vững chắc, Tô Hoài đã tìm ra được sự phát triển logic của tính cách. Đây mới thật sự là một giá trị hiện thực độc đáo của tác phẩm, và là chỗ có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất. Tô Hoài đã chỉ ra sự hợp lí của quá trình tha hoá nhân cách của cô Mị thời kì đầu. Mị làm việc nhiều quá, bị đày đọa khổ ải quá, mãi rồi Mị phải “quen”, phải cam chịu. Lúc trước Mị không được quyền tự tử vì sợ liên luỵ tới bố; giờ bố chết, nhưng Mị không còn muốn tự tử nữa. Mị như một cái máy, không có ý thức, không cảm xúc, ước ao. Liệu cô có thể thức tỉnh được nữa không? Nhà văn trả lời: có. Nếu đã có một hoàn cảnh làm tê liệt tâm hồn con người thì cũng sẽ có một hoàn cảnh đánh thức được nó. Hoàn cảnh nào đây? Phép mầu nào đây? Kỳ diệu thay và cũng đơn giản thay. Là tiếng sáo Mị tình cờ nghe được giữa một ngày mùa xuân đầy hương sắc. Tất cả chợt sống dậy, Mị thấy lòng “thiết tha bồi hồi” và lập tức nhớ lại cả quãng đời thiếu niên tươi đẹp. Có gì lạ đâu nhỉ? Thanh niên Mèo ai chả yêu tiếng sáo, mà Mị . lại là cô gái thổi sáo giỏi. Hơn nữa, tiếng sáo đang chập chờn kia lại nhắc đến tình yêu, “gọi bạn yêu” nó thức dậy trong sâu thẳm trong lòng cô khát vọng tình yêu thương và hạnh phúc. Như vậy tiếng sáo lại động chính cái sức mạnh bền vững, bất diệt nhất của tuổi trẻ, Mị nhớ lại rành rõ “mình vẫn còn trẻ lắm”, rằng “bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi xuân”. Và bên tai Mị cứ “lững lờ” tiếng sáo. Sự bừng tỉnh từ sâu xa trong tâm hồn ấy biểu hiện bên ngoài bằng hành động mới nhìn rất lạ: “Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy”. Có ngọn lửa nào đang cần phải khơi lên hay cần phải dập tắt đi bằng hơi men vậy? Chỉ biết rằng cô gái đã quyết thay váy áo đi chơi, điều mà bao năm rồi cô không nhớ đến. Có thể coi đây là một bước đột biến tâm lí nhưng là kết quả hợp lí toàn bộ quá trình tác động qua lại giữa hoàn cảnh với tính cách nhân vật. Sự “vượt rào” của Mị tuy bị đàn áp ngay (A Sử đã tắt đèn, trói đúng cô vào cột); nhưng ý thức về quyền sống, khát vọng về hạnh phúc đã trở lại. Mị lại biết khóc, lại muốn tự tử. Và những giọt nước mắt trong cái ngày tàn nhẫn này sẽ lưu giữ trong lòng Mị như một vết bỏng rát để đến khi bắt gặp những dòng nước mắt chảy “lấp lánh” trên gò má hốc hác của A Phủ, nó đã biến thành sự đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng khổ. Toàn bộ ý thức phản kháng của Mị hiện hình qua một câu hỏi sáng rõ: “người kia việc gì phải chết?” Mị quyết định trong khoảnh khắc: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Và tất nhiên, Mị cũng bỏ trốn, tự giải thoát chính mình. Hai kẻ trốn chạy chịu ơn nhau, cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc. Thế nhưng cái đồn Tây lù lù xuất hiện và lại có cha con thông lí Pá Tra về ở trong đôn, thì họ thật sự bị dồn đến chân tường. Trước mặt họ, chỉ còn sự lựa chọn cuối cùng: trở lại kiếp nô lệ hay chống kẻ thù. Chắc chắn họ thà chết còn hơn lại sống như cũ. Nhưng muốn chống kẻ thù, họ trông cậy vào ai? Cách mạng đã đến với họ đúng giây phút ấy. Mị và A Phủ đi theo cách mạng, sẽ thuỷ chung với cách mạng như một lẽ tất yếu!

   Bằng sự am hiểu cuộc sống và khả năng phân tích những vấn đề sắc bén, nhất là bằng ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, Tô Hoài đã tái hiện chân thật và sinh động cuộc hành trình từ đau khổ, tối tăm ra phía ánh sáng cách mạng của những người dân lao động với chế độ cũ. Tác phẩm đem lại cho bạn đọc nhận thức đúng đắn về con đường cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta. Ngoài ra giá trị hiện thực của truyện còn được gia tăng bằng màu sắc địa phương rất đậm nét với cảnh sắc, phong tục, sinh hoạt của người Mèo, bằng bản sắc tâm hồn độc đáo của các nhân vật. Cùng một số phận, một cảnh ngộ, những diễn biến tâm lí của Mị rất khác A Phủ. A Phủ mạnh mẽ, bộc trực, dứt khoát. Mị dường như chín chắn hơn nhưng lại yếu đuối hơn.

   Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng chứa đựng thái độ của nhà văn đối với cuộc sống, trước hết là với con người. Ngay giá trị hiện thực của vợ chồng A Phủ đã để lộ cái nhìn nhân đạo, ưu ái của Tô Hoài. Khi cô đúc nỗi cùng khốn vào hai thân phận nô lệ với ý thức làm một bản cáo trạng về xã hội cũ, Tô Hoài đã gợi lên trong chúng ta sự căm phẫn, sự đau xót, sự cảm thông khi miêu tả buổi lễ ăn thề giữa A Châu và A Phủ như là cuộc nhân duyên giữa quần chúng và cách mạng, ông đem lại niềm tin về một tương lai sáng sủa cho những người bị áp bức.

   Thật ra cũng khó tách bạch đầu là giá trị hiện thực, đâu là giá trị nhân đạo ở một tác phẩm như Vợ chồng A Phủ. Hiện thực và nhân đạo nhiều khi hòa trộn với nhau. Không thể không nói đến tính chân thật, chính xác, logic ở những đoạn mô tả tâm lí, nhưng rõ ràng phải biết thông cảm, biết trân trọng nâng niu con người lắm, mới có thể xét đoán tâm hồn người ta tinh tế như vậy. Thật khó quên hình ảnh cô Mị lần tìm về quỳ lạy trước mặt bố mà khóc nức nở. Đứa con chưa kịp nói gì người cha đã biết: “Mày về quỳ lạy tao để mày chết đấy à? Không được đâu con ơi”. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, quay trở lại chốn địa ngục trần gian. Phải, cô gái ấy vốn có một nhân cách đáng trọng. Cô thà chết để khỏi sống khổ nhục, nhưng lại phải chấp nhận sống khổ nhục hơn là bất hiếu với cha. Chính Mi, khi còn trẻ đã biết xin bố: “con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Đó là con người biết yêu quý tự do, biết khẳng định quyền Ngay cả lúc bị hoàn cảnh vùi dập đến mê mụ, trong tro tàn của lòng cô vẫn âm ỉ đốm than hồng của niềm ham sống, khao khát thương yêu. Nếu nhà văn chỉ tuân theo một thứ hiện thực khách quan, lạnh lùng thì làm sao ông có thể đón đợi và nắm bắt tài tình giây phút sống lại bất ngờ và mãnh liệt đến thế của cô gái. Không trước sau ông vẫn tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghiệt đến mấy, cũng không thể tiêu diệt hoàn toàn nhân tính. Mị đã sống lại bằng tuổi trẻ, bằng nỗi day dứt về thân phận của mình. Chính cái khát vọng sống mãnh liệt không thể chết được ở Mi, làm cho Mị đông cảm với cảnh ngộ của A Phủ và đi đến quyết định giải thoát cho A Phủ, giúp Mị tự giải thoát khỏi cái chốn địa ngục để làm lại cuộc đời, để sống như một con người.

   Tô Hoài đã trân trọng từng bước trưởng thành của Mị và A Phủ. Cái nhìn của ông về hai nhân vật này là một cái nhìn nhân đạo tích cực. Ông cảm thông nỗi đau của Mị và A Phủ, mặt khác ông trân trọng ý thức nhân phẩm, khát vọng giải phóng và tin ở khả năng tự làm chủ trước cuộc đời của hai con người đau khổ này. Phải chăng, chính cái nhìn đó đã tạo nên giá trị của tác phẩm. 

                                                                              (Sưu tầm)

Nguồn website giaibai5s.com

Tuần 19: Nội dung Vợ chồng A Phủ (trích) – Tô Hoài
Đánh giá bài viết