I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tác giả

– Nguyễn Tuân (1910 – 1987) quê ở Hà Nội, xuất thân trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.

– Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1930, nổi tiếng từ 1938 với những tác phẩm có phong cách độc đáo.

– Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng vả kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới.

– Nguyễn Tuân để lại một sự nghiệp văn học phong phú với những trang viết độc đáo và đầy tài hoa. Ông là một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hoá lớn. Được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật năm 1996. .

– Tác phẩm tiêu biểu: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Sông Đà.

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác của tuỳ bút Người lái đò Sông Đà

   Rút từ tập tuỳ bút Sông Đà (1960), thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuấn đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn.

II. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

1. Chứng minh Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà. .

   Bằng sự quan sát công phu, tinh tế, sự tìm hiểu kĩ lưỡng, tác giả đã viết về sông Đà và người lái đò đầy sinh động, tài hoa, độc đáo. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, sống Đà như một nhân vật có hai tính cách mâu thuẫn: hung dữ và trữ tình. Sông Đà được cảm nhận như một sinh thể sống, có những tính cách, tâm trạng giống như một con người với hai mặt đối lập trong một chỉnh thể thống nhất. Để viết được đoạn trích đặc sắc như vậy tác giả phải vận dụng những tri thức của các ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau. Những thủ pháp của điện ảnh, hội họa, âm nhạc,… được ông vận dụng linh hoạt, khéo léo. Những kiến thức của các ngành văn hóa, địa lí, lịch sử, thể thao, quân sự,… được ông phô bày, trình diễn một cách điêu luyện. Chính vì vậy mà trang văn Nguyễn Tuân khi mềm mại, đằm thắm chất thơ, khi sinh động như một khúc phim quay cận cảnh khi tràn đầy sắc màu, không gian như một bức tranh độc đáo. Vốn kiến thức sâu sâu rộng, uyên bác của tác giả đã tạo một hiệu quả thẩm mĩ vô cùng mạnh mẽ, khi nó tác động trực tiếp đến người đọc, khiến độc giả luôn phải ngỡ ngàng, say đãm, khám phá những trang viết của ông.

2. Hình ảnh của một con sông Đà hung bạo qua những biện pháp nghệ thuật trong tùy bút.

   Khác với những hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm tự sự (truyện ngắn, tiểu thuyết) hình ảnh sống và trong tuỳ bút này được giới thiệu về phân chất, tính cách một cách trực tiếp. Trữ tình và hung bạo là hai nét tính cách mà Nguyễn Tuân phát hiện từ dòng sông Đà rồi giới thiệu tới người đọc. Đây cũng là nét phong cách riêng của Nguyễn Tuân khi thể hiện một hình tượng nghệ thuật.

   Ngay từ lời đề Nguyễn Tuân đã phát hiện ra cái độc đáo của sông Đà “Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu”. Sông Đà không chịu chung hướng với các dòng sống khác mà chọn một hướng đi riêng. Cái độc đáo của sông Đà trước hết bộc lộ ở tính cách hung bạo.

   Cái hung bạo của con sông Đà hiện lên ở bờ đá ven sông “đá bờ sông dụng vách thành”. Vách đá chen ngang lòng sông như một cái yết hầu. Nguyễn Tuấn đưa ra khá nhiều hình ảnh để tả lòng sông chỗ bị đá chen. Tài quan sát và vốn từ ngữ phong phú đã giúp Nguyễn Tuân miêu tả thành công cái dữ dội của đá nơi lòng sông. Vách đá ấy giống như một thứ hùm beo ăn thịt đời sống của cả dòng sông Đà. 

   Cái dữ dội của dòng sông Đà còn ở tiếng nước, thác nước. Lối văn trùng điệp hình tượng hoá tiếng nước dữ dội của sông Đà. Nó lúc nào cũng trong tư thế cuồng phong thuỷ chiến. Tiếng nước được nhà văn miêu tả như tiếng một con vật khổng lồ đang bị hành hình. Dòng sông được miêu tả như một thuỷ quái đang giãy chết. Như một điện ảnh gia, Nguyễn Tuân còn hình dung ra cảnh: một anh bạn quay phim táo tợn ngôi vào chiếc thuyền để hút nước sông Đà, hút xuống dưới tận đáy sông để rồi từ đó lia ngược máy quay phim lên. Nước sông Đà như một khối bê tông thuỷ tinh đúc dày. Khối bê tông này có thể đổ ập xuống cả người, cả máy quay phim. Hình ảnh ấy gợi ra vẻ dữ dội nhưng kì vĩ của sông Đà. Dòng sông lúc nào cũng ở trong cơn cuồng nộ muốn hút vào lòng nó tất cả những gì trên bề mặt sông Đà. Tính hiếu chiến ấy là biểu hiện rõ nhất của dòng sông Đà hung bạo. Nguyễn Tuân còn tả hết sức tường tận những thác nước sống Đà. Tiếng thác nước nghe như là oán trách gì rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích giọng gằn mà chế nhạo”. Dòng sông Đà như uất ức hờn giận. Đặc sắc nhất là Nguyễn Tuân lấy lửa để tả nước làm cảnh sắc sông Đà dữ dội, hoành tráng. “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nỗ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.

   Đá ở sông Đà cũng hung bạo như thác nước sông Đà. Những hiểu biết về võ thuật, quân sự giúp Nguyễn Tuân miêu tả thành công thạch bàn trên ở lòng sông. Mỗi hòn đá mang gương mặt của những chiến binh “Mặt hòn nào cũng ngỗ ngược”, một hòn đá trong nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi tên chiếc thuyền. Cả đại dương đá dàn thành trận địa sẵn có hàng tiền vệ, có những boong ke, pháo đài đá, cửa tử, cửa sinh. Khi con thuyền của người lái đò xuất hiện ở sông Đà, đá nhổm cả dậy giao chiến với người lái đò. Sông Đà trở thành một chiến địa dữ dội hào hùng.

3. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà không chỉ hung bạo mà nó còn rất trữ tình.

   Trước hết là sự mềm mại duyên dáng của dòng sông. Từ trên cao nhìn xuống, Nguyễn Tuân được chiêm ngưỡng toàn cảnh dòng sông trong dáng hình mềm mại uốn lượn tự nhiên của nó. Nguyễn Tuân đã so sánh dòng sông Đà với sợi dây thừng ngoằn ngoèo. Sự so sánh giản đơn nhưng chính xác độc đáo nên tạo được sự bất ngờ thú vị. Sông Đà đẹp thơ mộng trước hết ở vẻ đẹp tự nhiên ấy.

   Dòng nước sông Đà cũng mang vẻ đẹp duyên dáng, thi vị: “Từng nét sông tãi ra trên đại dương đá. Từ trên cao, trên nền một đại dương đá núi ẩn hiện lờ mờ qua làn mây là một con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ấn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nguyễn Tuân So sánh dòng sông với áng tác của người con gái. Sông Đà hiện lên như một mĩ nhân duyên dáng, đài các. 

   Sông Đà trở thành nơi hội tụ vẻ đẹp của đất trời, con người Tây Bắc. Ít nhà thơ, nhà văn nào tả sông nước bằng hình ảnh nét sống tãi ra, tả con sông bằng áng tóc trữ tình. Nguyễn Tuấn đã miêu tả dòng sông bằng tâm hồn của một thi sĩ nên đã tạo được những liên tưởng kì thú như thế về dòng sông. Sông Đà còn có màu nước trữ tình, mùa xuân dòng xanh ngọc bích mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Sự thay đổi màu nước theo mùa làm dòng sông giống hệt một thiếu nữ thất thường. Nghệ thuật so sánh bất ngờ táo bạo rất Nguyễn Tuân đã làm nên một sông Đà thơ mộng, trữ tình, đa tình, đa cảm. Sông Đà là con sông gợi cảm. Dòng sông Đà khơi dậy trong lòng người bao nỗi niềm xúc cảm: “Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân”. Sông Đà gợi niềm vui của con người với cảnh cũ, tình xưa. Đến với sông Đà Nguyễn Tuân còn thấy lòng mình như trẻ lại, thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiêu gương vào mắt rồi bỏ chạy. Sông Đà đã gợi nỗi niềm thơ bé trong … lòng tác giả. Cảnh bờ bãi ven sông còn gợi lên trong Nguyễn Tuân niềm vui, niềm hứng khởi rất thi sĩ: “Chao ôi, trông con sống vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Đặc biệt sông Đà còn gợi trào dâng cảm hứng thi sĩ, đứng trước sông Đà không ai không nghĩ đến những câu ca dao thần thoại Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, những câu thơ tình của Tản Đà, những câu thơ Đường của Lí Bạch. Bỗng chốc sông Đà đã biến Nguyễn Tuân thành thi sĩ của tình yêu cảnh vật, cuộc đời, thiên nhiên xã hội con người.

   Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn toát lên từ không gian tĩnh lặng. Phải chăng đây là : đoạn Sông Đà ở hạ nguồn dòng sông hiền lành yên ả “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Cái tĩnh lặng ở sông Đà đưa Nguyễn Tuân trở về với quá khứ. Sông Đà trở thành nơi hội tụ của vẻ đẹp lịch sử. Cũng bằng liên tưởng, xúc cảm dồi dào, Nguyễn Tuân đã nhận ra về đẹp mộng mơ, huyền ảo, hồn nhiên, hoang dã của sông Đà. “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. “Bờ tiền sử, nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” là cách nói rất độc đáo của riêng Nguyễn Tuân. Nó không chỉ tạo cho câu văn nhạc tính mà còn làm ra giá trị gợi cảm của nó. Dòng sông Đà hiện nên thơ mộng, trữ tình, hồn nhiên, tươi sáng. Cảnh sắc ven sông Đà đẹp như trong huyền thoại cổ tích. Ở đó, cây lá đều tươi mới non tơ những lá ngô non đầu mùa, những búp nõn cỏ gianh, ở đó có những con vật hoang dã nhưng nghe được tiếng người: ở đó con người đắm chìm trong cảnh vật, thấu hiểu tiếng nói của loài vật. Vẻ đẹp của dòng sông Đà thật trữ tình thơ mộng. Trong cách miêu tả của Nguyễn Tuân, sông Đà thực sự là một người tình nhân chưa quen biết, là một mĩ nhân lắm bệnh nhiều chứng chốc dịu dàng đấy, chốc lại bắn tính gắt gỏng. Bút pháp lãng mạn với thủ pháp tương phản, hệ thống hình ảnh được tạo ra từ những liên tưởng kì thú đã giúp Nguyễn Tuân miêu tả vẻ đẹp kì thú đặc biệt độc đáo của sông Đà.

4. Phân tích hình tượng người lái đò trong cuộc chiến đấu với con sông hung dữ. Từ đó làm nổi bật con người Tây Bắc xứng đáng là vàng mười của đất nước.

   Người lái đò sông Đà trước hết là một ông già 70 tuổi đã dành một phần lớn cuộc đời mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên dòng Sông Đà ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu chục lần” trong thời gian hơn chục năm làm nghề lái đò, cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này. Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò và đã đạt đến trình độ bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự khâm phục của mình đối với con người này Sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc cả đến dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”.

   Hình dáng bề ngoài của ông lái đò được Nguyễn Tuân phác hoạ khá độc đáo, luôn gợi đến dòng sông và nghề nghiệp của ông “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như nước trước mặt ghềnh sông nhỡn giới ông vời vợi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Thân hình ông cao to và gọn quánh như chất sừng chất nun”. Người xưa vẫn coi “Cưỡi con gió mạnh, đạp đầu sóng dữ” là biểu trưng cho một lí tưởng sống anh hùng. Ông lái đò dưới ngòi bút của Nguyễn Tuấn cũng chính là con người cưỡi gió đạp sóng theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu, ông đâu có đôi cánh tay Héc-quyn để sánh được với sức lực của Thuỷ Tinh. Nhưng ông đã “nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá” và cái kinh nghiệm đò giang sông nước lên thác xuống ghềnh và cái trí tuệ ấy đã khiến cho ông lái dù trong tay chỉ có cây chèo (cái que nhỏ giữa nguy nga sóng thác) vẫn có thể phá thành vượt ải như một chiến tướng bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống thiên nhiên. Một cảm hứng hào hùng đã khiến ngòi bút Nguyễn Tuân tả một cuộc vượt thác sông Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo hấp dẫn, một khúc hát ca ngợi chiến công của một bậc anh hùng. Cuộc chiến đấu của người lái đò có thể chia thành ba chặng vượt vòng vây của thác nước, đá sông.

   Ở chặng thứ nhất: Vừa vào trận, sóng nước, đá sông hò la vang dậy, ùa vào bẻ gãy cán chèo – võ khí, đá trái thúc vào bụng, vào hông thuyền. Nước như đồ vật túm thắt lưng ông đò rồi đánh miếng đòn độc, đánh vào chỗ hiểm. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi. Con thuyền bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn và tỉnh táo của người cầm lái, ông đó thực là một chiên sĩ dũng cảm, rất bình tĩnh nên mọi đau đớn để chiến thắng kẻ thù.

   Ở chặng thứ hai: Kẻ địch thay chiến thuật, chúng tăng thêm nhiều cửa tử. Cửa sinh bố trí lệch sang phía tả ngạn, lập lờ, bí hiểm hơn ở trùng vi trước, hòng đánh lừa con thuyền. Nhưng ông đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, thuộc quy luật phục kích của lũ đá. Ông “cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Nắm chặt được cái bờm của sóng đúng luồng rồi ông đó ghì cương lái phóng nhanh vào của sinh, lái miết một đường chéo con thuyền lướt nhanh, bất ngờ khiến cả bọn đá thủy quân không kịp trở tay, khiến “Cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Ông đò – người chỉ huy ấy thật thông minh tài giỏi xiết bao. .

   Ở chặng thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải, bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở ngay giữa con thác. Ông đò như một người chỉ huy dày dạn cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa, giữa đó “vút vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Bản hùng ca vượt thác lên đến cao trào. Con thuyền lướt nhanh trên đầu sóng, sóng nước của sông Đà và sóng của Nguyễn Tuân trên con thuyền vun vút đó chúng ta nhìn rõ hình ảnh người lái đò anh hùng vừa dũng cảm thông minh vừa thật là tài hoa. Ở phần vĩ thanh của khúc ca vượt thác, nhà văn chuyển gam với mấy câu tả êm nhẹ câu kế thủ thỉ, tâm tình. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác, xèo xèo tan trong trí nhớ. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh. Chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua. Ở đây ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp nữa của những người lái đò, chèo đò. Họ anh hùng xiết bao, cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội để giành lấy sự sống từ tay những con thác nên cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ. Họ nghĩ như thế, cái phi thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hoà quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ. Dường như cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp mang “chất vàng mười” của những người lao động bình dị ở Tây Bắc trên một chặng vượt thác sông Đà Nguyễn Tuân đã không cầm lòng được. Trước khi chia tay họ để gặp lại dòng sông, ông giữ lại một ước nguyện thật đẹp đẽ chân tình:“Tôi nghĩ nếu sau này làm phim màu về sông Đà, cũng phải đưa ống quay phim lên tàu bay, cho bay là là trên thác mà gí máy xuống, mà lượn ống máy theo những luồng sinh của thác trên thác hiện ngang một người lái đò sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà”. .

   Sử dụng nghệ thuật của ngôn từ rồi nghệ thuật của hội hoạ, âm nhạc với những tri thức trong chiến đấu, trong võ thuật với bao nhiêu hiểu biết rộng và sâu khác nữa để khắc hoạ, ngợi ca nhân vật mà vẫn cảm thấy chưa đủ, đến đây nhà văn dùng thêm phương pháp của điện ảnh. Hình tượng người lái đò hiên ngang, sừng sững hiện lên trong ổng quay phim của nhà nghệ sĩ, cao lớn, lung linh như một thiên thần. Cùng với vẻ đẹp của người anh hùng trí dũng tài hoa từng chiến thắng ghềnh thác, người lái đò thêm một “chất vàng mười” nữa, người lao động có tự do đạt tới độ thành thục, điêu luyện vì làm chủ được thiên nhiên, chế ngự thiên nhiên, đem lại cuộc sống ấm no cho đời mình, sự giàu đẹp cho Tổ quốc. 

5. Chọn phân tích một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân. 

   Ví dụ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sự. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.” Bờ sông Đà được miêu tả bằng những câu văn đậm xúc cảm hoài niệm. Cái hoang dại của dòng sông được so sánh với nét hoang sơ của bờ tiền sử, cái trẻ trung của dòng sông được so sánh với nỗi niềm hồn nhiên của cổ tích. Nguyễn Tuân rất có tài khi sử dụng biện pháp so sánh. Lần so sánh nào cũng khiến người ta ngỡ ngàng, thán phục, say mê, Câu văn đưa người đọc trở lại với một thời quá khứ xa xưa, sông Đà được khoác lên tấm áo lung linh, huyền ảo, gợi lên một nét đẹp yên bình, thơ mộng, gần gũi và thân thiết.

III. LUYỆN TẬP 

1. Tìm đọc trọn vẹn tùy bút Người lái đò Sông Đà.

2. Phân tích và phát biểu cảm nghĩ về một đoạn văn khiến anh (chị) thấy yêu thích, say mê nhất trong tùy bút.

Học sinh đọc kĩ văn bản, dựa vào nội dung tìm hiểu bài, chọn và viết một đoạn văn trong văn bản mà mình tâm đắc nhất.

Nguồn website giaibai5s.com

Tuần 16: Người lái đò Sông Đà (trích) – Nguyễn Tuân
Đánh giá bài viết