I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Nhà thơ Thanh Thảo

– Một trí thức nhiều suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội và thời đại.

– Muốn cuộc sống được cảm nhận và thể hiện ở chiều sâu nên luôn khước từ lối biểu đạt dễ dãi; đào sâu vào cái tôi nội cảm, tìm kiếm những cách biểu đạt mới qua hình thức câu thơ tự do, giải phóng mọi ràng buộc nhằm mở đường cho một cơ chế liên tưởng phóng khoáng, xoá những khuôn sáo bằng những nhịp điệu bất thường, đem đến cho thơ một mĩ cảm hiện đại bằng hệ thống hình ảnh và ngôn từ mới mẻ.

– Kiểu tư duy: giàu suy tư, mãnh liệt, phóng túng trong xúc cảm và nhuốm màu sắc tượng trưng siêu thực. .

+ Tượng trưng: Tìm vào trạng thái tâm hồn với những linh cảm được khơi dậy từ vô thức, cho rằng hiện tượng trong vũ trụ tồn tại như những dấu hiệu tượng trưng cho bản chất huyền bí của tạo vật mà chỉ riêng nhà thơ mới có những thiên bẩm kì diệu để thâm nhập và biểu đạt được những hình ảnh tượng trưng ấy. Thơ là một thứ “siêu cảm giác”, không thể giải thích được. Không cần có hình tượng rõ nét, thơ được quan niệm như một bản hoà âm hoàn hảo. Dường như có nét tương đồng giữa sinh sôi của tạo hoá với sự sáng tạo thơ ca.

+ Siêu thực: Hướng tới một hiện thực cao hơn thực tại. Thế giới siêu thực chỉ có thể cảm thấy trong giấc mơ, trong tiềm thức, lúc đãng trí, thần kinh suy nhược, rối loạn. Khám phá thế giới ấy, nghệ sĩ sẽ phát hiện ra những điều sâu kín mà thiêng liêng, bí ẩn mà chính xác trong cuộc sống con người. Đề cao yếu tố tâm linh và sự ngẫu hứng, sáng tác thường được cấu thành bởi những dòng liên tưởng tiềm thức rời rạc không thể khắc hoạ được những bức tranh thực tại toàn vẹn.

2. Phê-đê-ri-cô Gar-xi-a Lor-ca (1898 – 1936)

– Là một trong những tài năng sáng chói của văn học hiện đại Tây Ban Nha.

– Trước một Tây Ban Nha – dưới sự cai trị của chế độ độc tài – đã trở nên phản động về chính trị và già cỗi về nghệ thuật, Lor-ca đã nồng nhiệt cổ vũ nhân dân đấu tranh với mọi thế lực áp chế, đòi quyền sống chính đáng đồng thời cũng khởi xướng và thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân trong lĩnh vực nghệ thuật. Lor-ca đã tự nguyện làm người du ca đi lang thang với cây đàn ghi ta hát lên những bài ca lãng tử, dùng tiếng đàn giãi bày nỗi đau buồn và niềm khát vọng yêu thương của nhân dân.

– Ông đã bị chế độ phản động cực quyền thân phát xít bắt giam và bắn chết. Cái chết thảm khốc của Lor-ca đã dâng lên một làn sóng phẫn nộ hết sức mạnh mẽ trên thế giới với bè lũ Phrăng-cô. Tên tuổi của Lor-ca trở thành biểu tượng chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ văn hoá dân tộc và văn minh nhân loại.

3. Hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca

a) Hoàn cảnh:

– Được viết liền mạch trong khoảng thời gian rất ngắn, sau khi ngồi chơi và đàm đạo về thơ Lor-ca với những người bạn tâm đắc → kết quả của ấn tượng và nhận thức sâu sắc về Lor-ca.

– Lor-ca là nhà thơ mà Thanh Thảo rất ngưỡng mộ. Cả thơ ca, cuộc đời và cái chết của Lor-ca đã gây cho tác giả những xúc cảm và ấn tượng. Chính những hình ảnh và nhạc điệu trong nhiều bài thơ của Lor-ca đã dẫn dắt Thanh Thảo khi viết Đàn ghi ta của Lor-ca. Kết quả của cuộc gặp gỡ về cảm xúc, giọng điệu và hình ảnh (sự gặp gỡ của hồn thơ).

– Từng được biết đến Tây Ban Nha qua những tác phẩm của Hê-minh-uê một nhà văn Mĩ, lại đọc thơ Lor-ca từ khi còn trẻ, hình ảnh Tây Ban Nha và hình ảnh trong những câu thơ Lor-ca đã lặn sâu vào tâm trí và trở thành một ám ảnh để khi viết bài thơ, nó bật ra một cách hoàn toàn tự nhiên. Kết quả sự thăng hoa của vô thức và ám ảnh về con người, cuộc đời và thơ Lor-ca, một con hoạ mi Tây Ban Nha… 

b) Mục đích sáng tác

   Bài thơ được viết như một khúc tưởng niệm Lor-ca, làm sống dậy hình ảnh Lor-ca và thể hiện sự tri âm, đồng cảm và ngưỡng vọng một người nghệ sĩ tài hoa có cốt cách anh hùng và số phận bị thương.

II. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

1. Không trực tiếp miêu tả âm thanh tiếng đàn mà tập trung miêu tả một thế giới của tưởng tượng và cảm xúc mà tiếng đàn ấy gợi lên. Dường như trong quan niệm của Thanh Thảo, tiếng đàn là âm thanh tiếng lòng của Lor-ca, phản chiếu cuộc sống và tâm hồn của Lor-ca. Nói về tiếng đàn mà dùng những từ không miêu tả trực tiếp âm thanh “nâu, “tròn”, “vỡ tan” và bằng những hình ảnh thoạt nhìn không có mối liên hệ gì với nhau “bọt nước”, “bầu trời cô gái ấy”, “lá xanh biết mấy”, “bọt nước vỡ tan”, “ròng ròng máu chảy”, “cỏ mọc hoang” tạo nên sự giao thoa lạ lùng mà đầy gợi cảm giữa âm thanh và hình ảnh.

– Là “Đàn ghi ta của Lor-ca”, lẽ đương nhiên có thể hiểu tiếng đàn ở đây là âm thanh, là giai điệu, là sự ngân rung của tâm hồn tràn đầy cảm xúc của Lor-ca với tư cách một chiến sĩ đấu tranh cho tự do và một nghệ sĩ thiết tha với cuộc sống.

– Hệ thống hình ảnh mà Thanh Thảo sử dụng để gợi ra tiếng đàn ghi ta của Lor-ca là những hình ảnh có khả năng gợi mở một bức tranh cuộc sống muôn màu muôn vẻ mà cũng có sức ám ảnh lạ lùng.

+ “bọt nước”: trong tự nhiên, bọt nước tạo thành do tác động từ bên ngoài vào mặt nước, do sự xô đẩy của những lớp sóng hoặc do những vận động ở tầng sâu đáy nước – nó có thể xuất hiện liên tục song cũng là sự tồn tại mong manh ngắn ngủi. Đó là một hình ảnh thị giác gợi cái hữu hạn mong manh, cái phù du trôi nôi. Cũng như âm thanh tiếng đàn, ở ý nghĩa vật chất, là cái tồn tại trong một khoảng hữu hạn của thời gian, vang lên rồi tắt. Cũng như đời người, hiện diện rồi tan biến mất. Đây là liên tưởng đầu tiên về tiếng đàn của Lor-ca và cũng là một liên tưởng lạ lùng, độc đáo, gợi nhiều ám ảnh. Nhất là khi đặt nó trong mối quan hệ với cuộc đời của Lor-ca: rất ngắn ngủi (chết khi mới 38 tuổi) và rất đau thương (khi chưa hoàn thành khát vọng đấu tranh và chưa đi hết con đường sáng tạo nghệ thuật, bị bắt, bắn chết rồi bị ném xác xuống giếng để phi tang). Trong liên tưởng của Thanh Thảo, hình ảnh Lor-ca và tiếng đàn Lor-ca đã nhập vào bọt nước, hiện diện thành bọt nước, mong manh và ám ảnh như bọt nước.

+ “tiếng ghi ta nâu / bầu trời cô gái ấy”: “nẫu” có thể là màu của vỏ đàn, màu của đất đai quê hương hay màu da cô gái Lor-ca yêu. Song, khi gắn với “bầu trời cô gái ấy” thì “tiếng ghi ta nâu” đã là âm vang và màu sắc của tình yêu, tiếng ghi ta đã chứa đựng trong nó thế giới của những rung động tình yêu say mê đắm đuối. Lạ là ở chỗ âm thanh tiếng ghi ta lại mở ra một khoảng trời, một phần đời sống riêng tư với tình yêu dành cho “cô gái ấy”, nghĩa là nó chứa đựng cái phần cuộc sống riêng tư mà cũng rạo rực say mê. 

+ “tiếng ghi ta lá xanh biết mấy”: lá xanh là thiên nhiên tươi tắn, là cỏ cây với cuộc sống tự nhiên; “lá xanh biết mấy” đã là sắc xanh làm xao xuyến cả tâm hồn. “Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy” là tiếng ghi ta mang màu xanh của sự sống và niềm thiết tha khắc khoải với sự sống.

+ “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan”: “tròn” gợi sự hoàn tất, “bọt nước vỡ tan” gợi sự mất mát, kết thúc của cái sự tồn tại mong manh – khi tiếng ghi ta vang lên những âm thanh cuối cùng của giai điệu cuộc sống cũng là khi sự sống đột ngột chấm dứt.

+ “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy” – là sự sống ở dạng tồn tại đau thương và bi tráng nhất. Âm thanh tiếng ghi ta là giai điệu, là sự sống của tâm hồn. Máu chảy ròng ròng lại gợi sự hủy diệt tàn bạo và vết thương đau đớn, gợi sự sống đang bị hủy diệt tàn bạo nhất. Đây là cách liên tưởng rất bạo (khác hẳn với kiểu liên tưởng của Nguyễn Du “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay” – gợi ngón tay bật máu khi dạo đến khúc cao trào của bản nhạc, cũng gợi nỗi đau ứa máu của người chơi đàn. Vì trong sự liên tưởng của Nguyễn Du, tiếng đàn là phương tiện biểu hiện nỗi lòng, còn trong liên tưởng của Thanh Thảo, bản thân tiếng đàn là một sự sống, một sinh thể cũng bị tổn thương và “chảy máu” như chính con người. Đây cũng là một cách liên tưởng rất tự nhiên và tất yếu từ thực tế cuộc đời Lor-ca (bị bắn chết tàn bạo rồi ném xác xuống giếng). Song quan trọng hơn, cách liên tưởng ấy của Thanh Thảo cho thấy một quan niệm của nhà thơ về nghệ thuật: nghệ thuật (tiếng đàn của Lor-ca) phản ánh cuộc sống và khi hấp thụ vào mình cái phong phú của cuộc sống thì bản thân nó cũng trở thành một sinh thể có sự sống, có linh hồn.

+ “không ai chôn cất tiếng đàn 1 tiếng đàn như cỏ mọc hoang”.

   “không ai chôn cất tiếng đàn” – có thể hiểu là không ai trân trọng tiếng đàn; là tiếng đàn không thể chôn cất được bởi nó là một giá trị tinh thần, sự tồn tại của nó vượt ra ngoài mọi giới hạn vật chất. Song đặt bên cạnh cách so sánh “tiếng đàn như cỏ mọc hoang” thì nên hiểu theo cách thứ hai. Về mặt cách thức, cách so sánh này nằm trong hệ thống của toàn bài (âm thanh được biểu hiện bằng hình ảnh). Về mặt ý nghĩa, đây là một cách liên tưởng rất lạ lùng: “cỏ mọc hoang” vừa gợi sức sống mãnh liệt, hoang dại, sức lan tỏa không gì ngăn cản được, vừa là chứng nhân, vừa là một tri âm với người lãng tử trong khúc du ca (thơ Lor-ca: ghi ta bần bật khóc không thể nào dập tắt”). Trong trường hợp này tiếng đàn là biểu tượng cho một sức sống mãnh liệt vẫn tiếp tục. Cũng có thể hiểu đây là lời đối thoại của Thanh Thảo với Lor-ca mong muốn được chôn cùng với cây đàn. Thanh Thảo không phải không đồng tình với nguyện ước ấy mà chỉ mở rộng để khẳng định rằng: Cây đàn của Lor-ca có thể chôn cất, thể xác Lor-ca có thể vùi lấp song tiếng đàn và tấm lòng của Lor-ca thì sẽ được trân trọng đón nhận và lưu giữ bởi tiếng đàn ấy mang trong nó một sức sống vẫy gọi để kết nối mọi cá nhân trong khát vọng vươn tới tự do và sáng tạo nghệ thuật nằm ngoài mọi quy luật của băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết. Thông qua hệ thống hình ảnh, Thanh Thảo vừa gợi ra một bức tranh cuộc sống muôn màu muôn vẻ của người nghệ sĩ, vừa gợi được sự vận động của hiện tượng tiếng đàn trong cuộc sống từ một thực thể tồn tại ngắn ngủi, mong manh đến một thực thể hội tụ trong nó muôn sắc màu của sự sống và rồi cuối cùng trở thành một sinh thể, một sự sống có sức sống bất diệt.

– Cùng với hệ thống hình ảnh, trong bài thơ có hai lần Thanh Thảo mô phỏng âm thanh tiếng đàn bằng chuỗi điệp âm “li-la li-la li-la” như một chuỗi âm buông do người đệm đàn lướt qua hàng dây – những âm thanh ngẫu hứng mà đây xao xuyến. Hai lần chuỗi âm thanh này xuất hiện đều tạo nên những điểm nhấn làm nổi bật hình tượng tiếng đàn. Lần thứ nhất nó vang lên lãng đãng, ngân nga trong một không gian dữ dội của đầu trường chính trị và đấu trường nghệ thuật trên xứ sở Tây Ban Nha. Lần thứ hai nó vang lên như những dư âm không dứt của tiếng đàn, những dư ảnh không tan của sự sống (li-la còn gợi nhắc đến tên một loài hoa, hoa tử đinh hương) vẫn đang lặng lẽ tỏa hương. Ở vị trí mở đầu và kết thúc bài thơ, chuỗi âm thanh này góp phần hoàn tất hình tượng tiếng đàn như một sự sống mãnh liệt mà mơ hồ, kiêu bạc và lãng đãng, ngân vang da diết mà lặng lẽ để gợi mở những cảm nhận, hình dung thậm chí là những ám ảnh về một hình tượng khác – hoàn chỉnh và trọn vẹn hơn – hình tượng Lor-ca.

2. Nêu cảm nhận của anh (chị) khi đọc đoạn thơ:

               “không ai chôn cất tiếng đàn….

                long lanh trong đáy giếng.”

   Nếu những đoạn thơ trên Thanh Thảo dựng lên chân dung của nhà cách tân nghệ thuật, người chiến sĩ đấu tranh cho khát vọng tự do cùng cái chết bi tráng của Lor-ca, thì những câu thơ sau lại là nỗi tiếc thương và niềm tin mãnh liệt vào sự bất tử của tiếng đàn Lor-ca. Đối với lòng tiếc thương, mọi cái chết đều ngang trái. Cái chết của Lor-ca càng ngang trái bội phần. Vì ông bị phát xít giết hại khi còn trẻ, các ông còn bị chúng quẳng xuống một cái giếng để phi tang. Và Thanh Thảo đã chọn thời điểm bi phẫn nhất của cuộc đời Lor-ca cho cảm hứng của thi phẩm, lấy lời di chúc của Lor-ca “khi tôi chết hãy chọn tối với cây đàn” làm đề từ cho bài thơ của mình. Đây chính là di ngôn đầy tâm huyết của người nghệ sĩ chân chính. Lor-ca không muốn nghệ thuật của mình vì được công chúng yêu mến đưa lên đài danh dự, rồi vô tình sẽ trở thành một vật cản trên con đường sáng tạo không có giới hạn đối với thế hệ sau. Nhưng không ai chôn cất tiếng đàn. Câu thơ có lẽ đã được bật ra trong tâm thức sáng tạo của Thanh Thảo khi ông nghĩ tới lời thỉnh cầu của Lor-ca. Không ai hiểu, không ai làm theo di nguyện của Lor-ca, ý nguyện của Lor-ca là một ý nguyện thể hiện chất nghệ sĩ bẩm sinh hoàn hảo của nhà thơ, nói lên sự gắn bó vô cùng sâu nặng của ông đối với nguồn mạch dân ca xứ sở – đã không được thực hiện. Nhưng nghĩ sâu về điều đó, ta bỗng vỡ ra một chân lí: không ai chôn cất tiếng đàn và dù muốn chốn cũng không được! Vì đó là tiếng đàn, một giá trị tinh thần, chứ không phải là một cây đàn vật thể. Tiếng đàn ấy trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là tự nhiên. Nó vẫn không ngừng vươn lên, lan toả, ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo ra nó đã chết. Thật sự thấm thía chân lí nói trên, nhưng tác giả vẫn không ngăn nổi lòng mình: nuối tiếc, họ xót thương cho cái chết của thiên tài và những cách tân nghệ thuật còn dang dở. Những câu thơ được viết ra thấm đẫm cảm giác xa vắng, bơ vơ, côi cút, giữa mênh mang trong cõi trời đất. Lor-ca mất đi, để lại một khoảng trống quá lớn cho nhân dân Tây Ban Nha đang đấu tranh vì tự do công lí, cho nền nghệ thuật Tây Ban Nha đang trên con đường cách tân. Mất Lor-ca “tiếng đàn như cỏ mọc hoang”. Tác giả so sánh để nhấn mạnh vị trí vai trò của thiên tài Lor-ca, và khi người nhạc trưởng mất đi, bản giao hưởng nghệ thuật Tây Ban Nha sẽ loạn nhịp. Và cũng chính vì thế không ai chôn cất tiếng đàn – tiếng đàn như cỏ mọc hoang”. Bằng hình ảnh so sánh, Thanh Thảo muốn người đọc cảm nhận về sức lan toả của Lor-ca, sự sống mãnh liệt của nghệ thuật Lor-ca không gì có thể huỷ hoại được. Sức sống mãnh liệt ấy cùng lòng xót thương của nhân dân được thể hiện tập trung qua hình ảnh thơ:

                   giọt nước mắt vầng trăng

                   long lanh trong đáy giếng. 

   Câu thơ được viết theo lối “nghệ thuật sắp đặt”, giữa chúng chẳng có một quan hệ từ nào. Vì thế, ta có thể hiểu theo nhiều kiểu quan hệ, tạo ra nhiều lần nghĩa: (1) quan hệ đăng lập: giọt nước mắt (và) vầng trăng; (2) quan hệ song song: giọt nước mắt (với) vầng trăng; (3) quan hệ so sánh: giọt nước mắt (như) vầng trăng: (4) quan hệ sở hữu: giọt nước mắt (của) vầng trăng; (5) quan hệ đồng nhất: giọt nước mắt (là) vầng trăng… Người đọc có một thoáng phân vân: vậy ý thực của câu thơ sẽ theo nghĩa nào? Nhưng thoáng ấy sẽ qua nhanh bởi chỉ có câu trả lời duy nhất, nó phải là sự giao thoa và lung linh của tất cả các làn nghĩa ấy, nó tạo ra những liên tưởng có tính hiệu ứng dây chuyền. Giọt nước mắt tiếc thương của những người mến mộ dành cho Lor-ca như vầng trăng soi vào đáy giêng, | lung linh, lan toả từ người này sang người khác, từ đất nước Tây Ban Nha lan ra cả nhân loại tiến bộ, và cả sự cộng hưởng tình cảm ở đông đảo bạn đọc Việt Nam. Nói cách khác, hình ảnh thơ tượng trưng siêu thực đa nghĩa khẳng định sự tỏa sáng trường tồn và bất diệt của thiên tài Lor-ca.

3. Hình tượng tiếng đàn trong bài thơ mang ý nghĩa ẩn dụ.

   Tiếng đàn tượng trưng cho nghệ thuật của Lor-ca, tình yêu tự do và tình yêu con người của nhà thơ. Thanh Thảo viết tiếng đàn như cỏ mọc hoang nhằm khẳng định một chân lí: cái đẹp không thể bị hủy diệt.

III. LUYỆN TẬP

Hình ảnh Lor-ca được thể hiện qua bài thơ:

a) Lor-ca và cuộc hành trình đơn độc

– Trong thực tế, Lor-ca đã khơi dậy phong trào đấu tranh chống lại chế độ độc tài phát xít và khởi xướng, thúc đẩy những cách tân trong nghệ thuật. Trên lập trường chính trị, Lor-ca là người đi đầu khởi xướng những cách tân nên cũng không dễ dàng tìm được sự thấu hiểu và ủng hộ trong một nền nghệ thuật đã trở nên già cỗi. Lor-ca như một hiệp sĩ cô đơn trong cuộc hành trình, cô đơn như Đôn Ki-hô-tê trong khát vọng tình yêu và trong cuộc chiến đấu chống lại quái vật và yêu ma.

– Để thể hiện được thực tế đó của cuộc đời Lor-ca và đặc điểm đó của hình tượng Lor-ca, Thanh Thảo không kể một câu chuyện cụ thể và mạch lạc, cũng không xây dựng một hệ thống chi tiết tường minh và lôgic. Lối thơ tượng trưng, siêu thực khiến ngòi bút nhà thơ đầy ngẫu hứng trong lựa chọn hình ảnh. Sự thấu hiểu và ngưỡng mộ một tài năng khiến Thanh Thảo tiến đến xu hướng lí tưởng hoá để tạo nên một sự hoà nhập chuyển hoá của cá nhân Lor-ca và đất nước Tây Ban Nha:

           Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
           ….
           trên yên ngựa mỏi mòn.

– Nói về Lor-ca song không vội nhắc đến tên Lor-ca, thay vào đó, danh từ “Tây Ban Nha” được dùng không chỉ một lần có tác dụng gợi cảm đặc biệt: vừa gợi hình tượng Lor-ca trong môi trường, không khí đặc trưng của đất nước Tây Ban Nha, vừa tạo liên tưởng đến một sự hoà nhập của Lor-ca trong đất nước quê hương mình. Hơn nữa, hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” của nền văn hoá Tây Ban Nha không thích hợp để ghép với một cái tên cụ thể. Sự kết hợp Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt” một mặt vẫn cho phép hiểu đó là hình ảnh của Lor-ca như một hiệp sĩ trên đấu trường thời đại, một mặt nâng hình tượng Lor-ca thành một biểu tượng tráng lệ của thời đại đó.

– Những từ láy “lang thang”, “đơn độc”, “chếnh choáng”, “mỏi mòn” có giá trị tạo hình biểu cảm một cách hợp lí để gợi ra một hình tượng mang đậm cốt cách Tây Ban Nha: hình tượng một hiệp sĩ cô đơn với bước chân mỏi mệt trong cuộc hành trình đơn độc song lòng vẫn đắm say mải miết theo đuổi lí tưởng vì cái đẹp, cái cao cả của đời mình – một hình ảnh không thể không gợi liên tưởng đến tinh thần hiệp sĩ và tư thế cô đơn của Đôn Ki-hô-tê – một hình tượng văn học của đất nước Tây Ban Nha.

+ “lang thang” – nay đây, mai đó, không dừng lại ở một nơi nào, không bó buộc trong một không gian nào – cốt cách tự do và hình ảnh người nghệ sĩ tự nguyện làm người du ca đi lang thang với cây đàn ghi ta hát lên bài ca lãng tử, dùng tiếng đàn giãi bày nỗi buồn đau và khát vọng yêu thương của nhân dân.

+ “đơn độc”- một mình, không có ai bên cạnh – hình ảnh của Lor-ca trong cuộc đấu tranh chính trị và khát vọng cách tân nghệ thuật, cũng gọi tư thế của một hiệp sĩ với lí tưởng cao cả đẹp đẽ mà không phải ai cũng có thể thấu hiểu và ủng hộ.

+ “chếnh choáng” – cảm giác của người đang say – say với cái đẹp và say với lí tưởng của mình dù cái đẹp ấy, lí tưởng ấy không được thực tại đón nhận và trân trọng.

+ “mỏi mòn” – trạng thái hao sút dần về sức lực, thể chất – hình ảnh con người đã mệt mỏi, đã bị vắt kiệt sức lực trong cuộc hành trình đơn độc của mình.

– Bản thân các từ láy rất giàu giá trị biểu cảm, khi đặt trong các kết hợp đã tạo nên những hình ảnh vừa chân thực, vừa thi vị, vừa cụ thể, vừa có sức khái quát để tạo những ấn tượng đầy lãng mạn. 

+ “đi lang thang” là bước chân của người nghệ sĩ với khúc du ca, “miền đơn độc” lại là một không gian trống trải quạnh vắng không sao tìm được ai cùng đi bên mình để có được một chút ấm áp, cuộc hành trình đơn độc của một hiệp sĩ – nghệ sĩ cô đơn.

+ “vầng trăng chếnh choáng” là sự say đắm của vầng trăng hay của con người với vầng trăng “vầng trăng” là hiện thân của cái đẹp. Con người nghệ sĩ say đắm với cái đẹp là điều bình thường. Nhưng ngay cả cái đẹp cũng bị quyến rũ, bị cuốn hút theo những khát vọng và cảm xúc của nghệ sĩ mới thật là điều kì lạ, độc đáo. Nó chứng tỏ cảm xúc ấy phải thật sâu sắc và khát vọng ấy phải thật mãnh liệt, thật cao cả.

+ “yên ngựa mỏi mòn”- những bước chân ngựa nặng nề mệt mỏi cùng với dáng vẻ mệt mỏi của con người trên yên ngựa – mệt mỏi vì đã phải đi một chặng đường xa mà cái đích vẫn xa vời, mệt mỏi và một mình đơn độc.

– Khi kết hợp lại tất cả các yếu tố ngôn ngữ trong đoạn thơ, ta có một nét phác đầu tiên khá chân thực, chính xác và vô cùng gợi cảm vể Lor-ca: “áo choàng đỏ gắt cùng với âm thanh tiếng đàn li-la li-la li-la đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chính choáng trên yên ngựa mỏi mòn” gợi một liên tưởng thú vị: con người nghệ sĩ đã đồng hành cùng vầng trăng chếnh choáng, song thật khó để xác định xem con người đang chếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn hay chính vầng trăng kia đang chếnh choáng trên yên ngựa. Có lẽ là cả hai. Từ đó, ta có thể hình dung ra hình tượng của một chàng lãng tử với cuộc hành trình về miền xa thăm. Chàng lãng tử ấy mang trong tâm hồn mình cả cuộc sống dữ dội và giấc mơ lãng mạn, cả ý chí kiên cường và những xúc cảm say đắm làm chếnh choáng cả vầng trăng. Đồng thời ta cũng có thể hình dung ra hình tượng một người nghệ sĩ cô đơn trên hành trình đi tìm cái Đẹp trong thế giới bạo tàn, cô đơn trong chính cuộc đấu tranh vì tự do và cái Đẹp mà nhân tố không phải ai cũng thấu hiểu.

b) Lor-ca và số phận thảm khốc

– Được gợi ra trước hết qua một tương phản:

   Tây Ban Nha
   hát nghêu ngao
   Lor-ca với tâm hồn thanh thản và cốt cách tự do hiện lên như một người du ca hát lên bài ca lãng tử.
   Tây Ban Nha
   bồng kinh hoàng
   áo choàng bê bết đỏ
   dân tộc Tây Ban Nha với cảm xúc choáng váng tột độ, đau đớn tột cùng và ghê sợ,  bàng hoàng khi Lor-ca – hiện thân của khát vọng tự do – bị bắt và bắn chết tàn bạo.

   Ở đây, nhà thơ như nhập thân vào hình tượng, đồng thời cũng tự phân thân để trải nghiệm đến tận cùng hai tâm trạng – tâm trạng của Lor-ca và tâm trạng của dân tộc Tây Ban Nha mà Lor-ca là đại diện ưu tú. Nỗi kinh hoàng của dân tộc Tây Ban Nha không chỉ là vì cái chết của Lor-ca mà còn vì cách ứng xử tàn bạo, vô nhân đạo trước khát vọng tự do của con người.

– Ở khổ thơ đầu, hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” gợi ra cốt cách tự do và tính cách dữ dội, phong cách anh hùng và cá tính nghệ sĩ thì ở khổ thơ này, hình ảnh “áo choàng bị bết đỏ” lại gợi tấm thảm kịch của con người mang khát vọng tự do. “Áo choàng đỏ gắt”? là một biểu tượng có chức năng khái quát, áo choàng bê bết đo” lại là một sự kiện cụ thể (Lor-ca bị điệu về bãi bắn). Thanh Thảo không đi sâu miêu tả sự kiện Lor-ca bị giết

mà chỉ gợi một ấn tượng dữ dội về nó để biểu hiện cảm xúc đau đớn của chính mình và gợi nỗi đau trong lòng người đọc. Song trong cảm nhận và biểu hiện của Thanh Thảo, nỗi đau không phải điều cuối cùng đọng lại. Cái đọng lại sau cùng là niềm tin vào sự bất tử của Lor-ca.

c) Lor-ca và sự bất tử .

– Được gợi mở bằng một so sánh đặc biệt: “chàng đi như người mộng du”. Trong không khí của đoạn thơ, “đi” là một hành động thụ động của đôi chân (vì con người thể xác đã bị bắt, bị đưa về bãi bắn), còn trong mạch vận động của hình tượng, đây là một bước chuyển đột ngột từ sự sống bên ngoài vào sự sống bên trong, từ vận động của đội chân đến sự vận động của tâm hồn, từ hành trình tới sự kết thúc vật chất đến sự khởi đầu bất tử của tinh thần. Vì “mộng du” tức là thoát khỏi thế giới thực tại để sống và bay bổng trong một thế giới khác – ở đây là thế giới của sự sống – một sự sống mạnh mẽ và phóng khoáng, tươi tắn mà lãng đãng để không thể nào huỷ diệt được. Thanh Thảo đã gợi ra một sự hoá thân, hoà nhập tuyệt đỉnh giữa hình tượng tiếng đàn và hình tượng Lor-ca: khi Lor-ca bị đưa về bãi bắn cũng là lúc tiếng đàn ngân lên (tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh). Khi Lor-ca bị bắn là khi tiếng ghi ta dạo khúc cao trào rồi tắt lịm (tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy). Khi xác của Lor-ca bị ném xuống giếng là khi sự sống của tiếng đàn trỗi dậy “như cỏ mọc hoang”. Và khi dư ba của tiếng đàn “như cỏ mọc hoang” là khi “Lor-ca bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc”… Hình tượng tiếng đàn Lor-ca đã vượt khỏi giới hạn vật chất của hình ảnh và âm thanh để trở thành hình tượng tinh thần có sức sống bất diệt.

– Lối liên tưởng độc đáo:

            giọt nước mắt vầng trăng .

            long lanh trong đáy giếng.

   Hình ảnh “vầng trăng xuất hiện hai lần đều không phải như những thực thể của thế giới khách quan mà như một biểu tượng gắn liền với những năng lượng tinh thần đặc biệt. Lần thứ nhất, trăng xuất hiện trong trạng thái “chếnh choáng” rất nghệ sĩ. Lần thứ hai lại được gợi ra trong một nỗi đau rất con người mà cũng thấm sâu như chính vũ trụ – nơi trắng kia hiện diện. Ở câu thơ này, vầng trăng trước hết thuộc về vũ trụ bát ngát với ánh sáng dịu dàng và vẻ đẹp mĩ lệ. Đối lập với vầng trăng là đáy giếng – nơi kẻ thù ném xác Lor-ca hòng xoá dấu vết tội ác, nơi tăm tối mịt mùng, không sao soi thấu được, nơi lưu giữ hiện thân của đau thương và tội ác xấu xa. Hai hình ảnh tương phản này gợi hai thế giới hoàn toàn cách biệt, xa lạ và không thể nào tìm mối liên hệ. Vậy mà Thanh Thảo đã phát hiện ra mối liên hệ giữa chúng bằng một liên tưởng độc đáo. Trước hết, “giọt nước mắt vầng trăng vừa có thể hiểu là giọt nước mặt của vầng trăng (trăng khóc cho cái chết oan khuất của Lor-ca hay chính là vũ trụ đã cảm thấu nỗi đau khôn cùng của con người), vừa có thể hiểu rằng là giọt nước mắt của vũ trụ rơi vào đáy giếng để soi sáng sự thật bị chôn vùi. “Đáy giếng” là nơi chôn vùi thân xác Lor-ca, nơi cất giấu một bí mật về tội ác của chế độ độc tài, “đáy giếng” cũng là nơi đón nhận sự toả sáng của mối đồng cảm sâu xa từ vũ trụ..

– Sức tưởng tượng mạnh mẽ: “đường chỉ tay đã đứt” là sự chấm dứt cuộc sống vật chất, “dòng sông rộng vô cùng” là cuộc đời vô hạn vẫn tiếp tục chảy trôi. Trong sự lạc quan ấy gợi một cảm giác bị quan: có lẽ sự tồn tại hữu hạn, mong manh của một đời người ngắn ngủi đứt gãy nửa chừng sẽ bị dìm cho chìm nghỉm dưới đáy sông, sẽ trở nên vô nghĩa trước cái vô cùng của sóng nước. Thế nhưng Thanh Thảo lại bằng tưởng tượng đem đến một cảm nhận hoàn toàn ngược lại:

            Lor-cu boi sung ngung

            trên chiếc ghi ta màu bạc.

   “Bơi” là hành động để tồn tại và khẳng định sự tồn tại trên dòng sông, “bơi sang ngang” là không bị cuốn đi và không muốn buông trôi theo dòng nước – phải chống chọi với sức bằng cuốn của sóng nước song cũng thể hiện rõ tư thế đứng cao hơn mọi sự chảy trôi thông thường, bơi bằng chiếc “ghi ta màu bạc” là dùng cây đàn ghi ta chở sự sống của mình vượt lên mọi sự băng hoại, chảy trôi. Chiếc đàn ghi ta đã chở sự sống và linh hồn Lor-ca vượt qua giới hạn ngắn ngủi của đời người để đến với cõi vô cùng của cuộc sống. Đó vừa là thực tế, vừa là niềm tin tuyệt đối của Thanh Thảo vào sự bất tử của Lor-ca. Vậy là, sự tưởng tượng xét đến cùng lại bắt nguồn từ nhận thức về giá trị tinh thần của tiếng đàn Lor-ca, từ giá trị của tiếng lĩọt và những cống hiến của Lor-ca cho nghệ thuật. Vậy là ta lại thấy ở đây một khía cạnh nữa trong quan niệm nghệ thuật của Thanh Thảo: sự sống vật chất của người nghệ sĩ chỉ là hữu hạn song sản phẩm nghệ thuật mà nghệ sĩ tạo ra sẽ đưa nghệ sĩ vào cõi bất tử.

   Dòng tưởng tượng tiếp tục trào dâng mạnh mẽ về sự sống bất diệt và niềm kiêu hãnh của Lor-ca: “lá bùa cô gái Di-gan” là vật có phép thiêng để trừ tà và tránh tai hoạ. Ném . lá bùa” vào “xoáy nước” là sẵn sàng đối mặt với hiểm hoạ và định mệnh trong cuộc đời – hành động làm bật lên tư thế đầy kiêu hãnh (“xoáy nước” là hiếm hoạ trên dòng sông Số phận, “ném lá bùa” là ném sự bảo vệ về sinh mạng). “Ném trái tim” lại là sự dâng hiển trọn vẹn trong thanh thản và vô tư những rung cảm trong sáng, chân thành và thiêng liêng nhất của chính mình – hành động làm bật lên sự cao cả của tấm lòng, sự cao thượng trong tình cảm. Cả tư thế kiêu hãnh và trái tim cao thượng đều là dấu hiệu của cốt cách nghệ sĩ – hiệp sĩ, nó làm tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng Lor-ca (hai lần Thanh Thảo dùng từ “ném”. Lần thứ nhất là hành động của một hiệp sĩ dám coi khinh cái chết bởi cái chết do kẻ thù gây ra cũng không thể ngăn cản tư tưởng, tâm hồn Lor-ca hòa vào sự sống bất tử của nhân dân. Lần thứ hai là hành động của một nghệ sĩ sẵn sàng và tự nguyện dâng trọn tâm hồn mình cho cuộc đời để ra đi trong yên lặng. Chính sự dâng hiến vô tư và tự nguyện ấy đã khiến tiếng đàn ghi ta của Lor-ca ngân vang bất diệt không chỉ bằng âm thanh mà còn bằng cả dư âm. Hai lần Thanh Thảo mô tả tiếng đàn “li-la li-la li-la”. Lần thứ nhất là những âm thanh vang lên trong không gian dữ dội của đất nước Tây Ban Nha thành lời ca tranh đấu. Lần thứ hai là những âm thanh vang lên trong “lặng im bất chợt”, vang lên từ cõi vô cùng và sự bất diệt. Lần thứ nhất là âm thanh thực. Lần thứ hai đã là những dư âm không dứt để khơi dậy và nối dài cảm xúc, rung động và tỏa sáng lí tưởng cao cả đẹp đẽ của Lor-ca.

Nguồn website giaibai5s.com

Tuần 14: Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo
Đánh giá bài viết