Đề 1. a) Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) được biểu hiện cụ thể ở những phương diện nào? Trình bày vắn tắt và nêu dẫn chứng minh họa.

Bài viết tham khảo 

   Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được Tố Hữu sáng tác vào năm 1954 nhân một sự kiện lịch sử. Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội. Từ điểm xuất phát ây bài thơ thể hiện tính gắn bó thăm thiết giữa người ra đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với Việt Bắc – quê hương của cách mạng, với đất nước và nhân dân, với Đảng và Bác Hồ, với cuộc kháng chiến đã thành kỉ niệm sâu nặng trong tâm hồn. Như thế nghĩa là trong niềm vui thắng lợi và đón nhận cuộc sống thanh bình nhà thơ vẫn không quên tình nghĩa gắn bó trong những năm gian khổ đã qua và coi đây là cội nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cho những ngày hiện tại và tương lai. Có thể nói, bài thơ Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc.

   Trước hết với kiểu kết cấu đối đáp rất đậm đà tình nghĩa của bài thơ Việt Bắc là tình yêu với thiên nhiên đất nước được biểu hiện cụ thể qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc trong nỗi nhớ của người cán bộ sắp về xuôi. Cảnh Việt Bắc hiện ra những vẻ đẹp hiện thực và thơ mộng, thi vị gợi rõ nét độc đáo của Việt Bắc so với nhiều miền quê khác của đất nước. Việt Bắc đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi, nắng chiều làng nương”, hình ảnh bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, là những “rừng nứa bờ tre, ngòi thưa, sông Đáy” là tiếng mõ trâu về trong rừng chiều, tiếng “Chày đêm nên cối đều đều suối xa”. Nhưng có lẽ nổi bật nhất là nỗi nhớ của Tố Hữu về Việt Bắc, là sự hoà quyện với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình:

                      Ta về, mình có nhớ ta
                                  …
                Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung. 

   Qua đó có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với những vẻ đẹp phong phú, đa dạng, thay đổi theo thời tiết, từng mùa. Gắn với cảnh tượng ấy là con người giản dị, người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng… Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình họ đã góp phần tạo ra sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính tình nghĩa gắn bó và san sẻ cùng nhau chịu đựng gian khổ, thiếu thốn, cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn giữa nhân dân với bộ đội và cán bộ, tất cả càng làm cho hình ảnh Việt Bắc sáng ngời trong hồi tưởng của nhà thơ. Việt Bắc – đó là hình ảnh những mái nhà “Hắt hiu lan xám, đậm đà lòng son”, hình ảnh người mẹ “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, là những ngày tháng đồng cam cộng khổ:

                      Thương nhau chia củ sắn lùi

               Bát cơm sẻ mưa, chăn sui đắp cùng.

   Có thể nói âm hưởng trữ tình vang vọng suốt bài thơ tạo nên khúc ca ngọt ngào, đảm thắm của tình yêu đồng chí, đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu đời. Theo dòng hồi tưởng của Tố Hữu, bài thơ dẫn ta vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với những hình ảnh hào hùng, những hoạt động sôi nổi, những âm thanh náo nức, phấn chấn. Ở đây, bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại bởi vì chỉ cần miêu tả khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc, Tố Hữu đã nêu bật khí thế chiến đấu vô cùng mạnh mẽ của dân tộc.

                       Những đường Việt Bắc của ta

             Đêm đêm rầm rập như là đất rung

                       Quân đi điệp điệp trùng trùng

             Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

   Dân tộc ấy đã vượt qua bao gian khổ hi sinh để lập nên những kì tích, những chiến công: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên… Tố Hữu không miêu tả diễn biến của cuộc kháng chiến mà chỉ đi sâu vào lí giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: “Miếng cơm chim muối, mối thù nặng vai”, sức mạnh tình nghĩa thủy chung: “Mình đây ta – đó, đắng cay ngọt bùi” nhất là sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, của sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên – tất cả tạo thành hình ảnh “đất nước đứng lên”.

                      Nhớ khi giặc đến giặc lùng.

            Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

                      Núi giăng thành luỹ sắt dày

            Rừng che bộ đội, riêng vây quân thù

                      Mênh mông bốn mặt sương mù

            Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

   Đặc biệt bằng những lời thơ trang trọng mà tha thiết, Tố Hữu đã đi sâu nhấn mạnh, hình ảnh và vai trò của Việt Bắc như là quê hương của cách mạng, căn cứ vững chắc của cuộc kháng chiến. Trong những năm đen tối trước cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa “ma nguồn suối lũ”, “những mây cùng mù” cho đến xác định như chiến khu kiên cường nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi sản sinh nhiều địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc.

                  Minh về có nhớ núi non

         Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

                  Minh đi mình có nhớ mình

         Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.

   Trong những năm tháng kháng chiến gian lao Việt Bắc là nơi có “cụ Hồ sáng soi”, có “Trung Lương, Chính phủ luận bàn việc công” để kiên định niềm tin yêu của cả nước đối với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những câu thơ mang sắc thái ca dao dạt dào những âm hưởng nghĩa tình của hồn thơ dân tộc.

                      Ở đâu đau đớn giống nòi

             Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

                     Mười lăm năm ấy ai quên

             Quê hương cách mạng dụng nên cộng hoà.

    Từ tình cảm yêu mến, gắn bó với cảnh và người Việt Bắc từ niềm tin tưởng vững chắc vào sức mạnh của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, Tố Hữu vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp của Việt Bắc ngày mai trong khung cảnh xây dựng cuộc sống mới hoà bình, phồn vinh.

                  Ngày mai rộn rã Sơn Khê

      Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng

                Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng

      Phố phường như nấm nhu măng giữa trời. 

   Những hình ảnh ấy là mơ ước, khát vọng và cũng là tình nghĩa mà những người cán bộ kháng chiến muốn đền đáp nơi từng là cội nguồn của cách mạng, nơi đã cưu mang, che chở họ trong những ngày đầy gian nan hi sinh. Đặc biệt ở những dòng cuối cùng của bài thơ người đọc càng hiểu sâu thêm sự sắc sảo, nhạy bén của bài thơ Tố Hữu khi hướng về ngày mai, nhà thơ không quên, một nét đẹp trong đạo lí truyền thống của dân tộc đó là tình nghĩa thuỷ chung, có mới mà không nói cũ, luôn nghĩ đến nhau và vì nhau giữa miền xuôi và miền ngược, giữa cán bộ và nhân dân của mình.

                Nhà cao còn thấy núi đôi nữa chăng?

                       Phố đông còn nhớ ban làng 

               Sáng đèn còn nhớ nhánh trăng giữa rừng?

   Có thể coi đây là lời cảnh báo về sự tha hoá khi có sự thay đổi môi trường, khi người ta có thể quên đi tất cả tình nghĩa năm xưa để chỉ nghĩ đến mình và vì mình. Cho đến hôm nay những lời thơ ấy của Tố Hữu vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự chứ không hề cũ xưa.

   Nhìn chung Việt Bắc là một bài thơ trữ tình chính trị bởi vì thơ ở đây là thơ với căn cứ cách mạng, với truyền thống cách mạng, với đất nước và nhân dân. Nhưng quan trọng hơn cả chuyện công tác, cái đã làm cho người ta cảm động là bài thơ đã thể hiện hết được truyền thống ân nghĩa của dân tộc Việt Nam, thể hiện một khát vọng về một chiến sĩ chan hoà tình yêu thương, hạnh phúc, thanh bình, bền vững mãi mãi trên đất nước, quê hương.

b) Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền Tây Bắc Bộ và những người đồng đội trong đoạn thơ sau:

                     Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
                     
                     Mai Châu mùa em thơm nếp nối.

   Bài viết tham khảo

   Năm 1948, cuộc kháng chiến của quân và dân ta chống thực dân Pháp bước sang năm thứ 3. Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947. Chặng đường lịch sử phía trước của dân tộc còn đầy thử thách gian nan. Cuộc kháng chiến đã chuyển sang một giai đoạn mới. Tiền tuyến và hậu phương tràn ngập tinh thần phấn chấn và quyết thắng. Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc. Một số bài thơ hay viết về anh bộ đội Cụ Hồ nối tiếp nhau xuất hiện: Lên Tây Bắc (Tố Hữu), Đồng Chí (Chính Hữu), Nhớ (Hồng Nguyên)… và Tây Tiến của Quang Dũng. Quang Dũng viết Tây Tiến vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản trờng và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc… Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang.

   “Tây Tiến” là phiên hiệu của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt – Lào, miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình, Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đoàn binh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu.

   Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu:

                      Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

                      Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.

   Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, hộ ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng. Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản, tên làng: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Châu Mộc, Mai Châu… được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc,… Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi mở cõi – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đoàn bình hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp:

                    Sài Khao sương lập đoàn quân mỏi,

                    Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

   Bao núi cao, vực sâu, dốc thăng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua. Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đến vực sâu. Các từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngui trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh “súng ngút trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chi khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Thiên nhiên, núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao / ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ. Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông ra xa khơi”. Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn. Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thăm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:

                 Chiều chiều oai linh thác gầm thét

                 Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

   “Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” những âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khô:

                       Anh bạn dãi dầu không bước nữa

                      Gục lên sung mũ bỏ quên đời!…

   Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hi sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xưong máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hi sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương. Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:

                Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

                Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

   “Nhớ ôi!” tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm lên khói”, với “mùa em thơm nếp xôi “có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về “mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài “Tiếng hát con tàu”.

            “Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

            Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

            Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

            Ba xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.”

   “Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khỏi”, nhớ “thơm nếp xổi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu. Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài Tây Tiến, một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh: .

                 Chiến trường đi chăng tiếc đời xanh… 

   Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng ngày một thêm sáng giá.

                                                            (Theo Huỳnh Thị Thanh Xuân )

Đề 2. a) Vẻ đẹp bị tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

   Học sinh tự làm.

   Tuy nhiên các em học sinh cần tập trung phân tích những câu thơ, hình ảnh sau để làm nổi lên vẻ đẹp lãng mạn cũng như chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến

                    – Anh bạn dãi dầu không bước nữa

                  Gục lên sóng nhũ bỏ quên đời!

                  – Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

                  Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

                  Mắt trùng gưi mộng qua biên giới

                  Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

                  Rải rác biên cương mô viễn xứ ..

                  Chiến trường đi chăng tiếc đời xanh

                  Áo bào thay chiếu, anh về đất

                  Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

b) Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ sau:

              Ta về, mình có nhớ ta
             
              Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Dàn bài gợi ý

– Mở bài: Giới thiệu về Tố Hữu, bài thơ Việt Bắc và đoạn thơ.

– Thân bài:

+ Đoạn thơ diễn tả nỗi nhớ Việt Bắc của người cán bộ về xuôi. Nhớ Việt Bắc là nhớ “những hoa cùng người”, nhớ vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Trong hồi tưởng của Tố Hữu, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp.

+ Nỗi nhớ thiết tha của người cán bộ sắp về xuôi đã khắc sâu hình ảnh thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc với vẻ đẹp vừa hiện thực vừa thơ mộng, thi vị, gợi rõ những nét riêng biệt, độc đáo.

+ Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hòa quyện thắm thiết giữa cảnh với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình…

+ Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với bao vẻ đẹp thật đa dạng, phong phú, sinh động, thay đổi theo từng thời tiết, từng mùa. Gắn bó với từng khung cảnh ấy là hình ảnh những con người bình dị: người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng… Băng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình, họ đã góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại – của cuộc kháng chiến. Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm và chia sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề, khó khăn… tất cả càng làm Việt Bắc thêm ngời sáng trong tâm trí của nhà thơ.

+ Đoạn thơ đẹp và cân đối như một bộ tranh tứ bình vừa cổ điển vừa hiện đại về thiên nhiên và con người Việt Bắc.

+ Nghệ thuật: phép điệp (điệp từ, điệp cấu trúc), hình ảnh thơ vừa quen thuộc vừa rất đặc trưng mang màu sắc riêng của núi rừng Việt Bắc, lời thơ giàu tính tạo hình, đồng thời rất gợi cảm và giàu nhạc điệu… .

– Kết bài: Đoạn thơ tiêu biểu cho chất trữ tình – chính trị và tính dân tộc của khúc tình ca “Việt Bắc”. Âm hưởng trữ tình của đoạn thơ cũng là âm hưởng chung vang vọng suốt bài thơ đã tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình đồng chí, nghĩa đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu đời.

3. a) Câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” (Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm) có nét tương đồng với những lời ca dao nào? Phân tích ngắn gọn ý nghĩa câu thơ này trong sự đối chiếu, so sánh với những bài ca dao mà anh chị đã liên tưởng.

   Gợi ý: Cấu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” có nét tương đồng với câu ca dao:

                   Tay nâng địa muối, chén gừng 

           Gừng cay nuối mặn xin đừng quên nhau.

   Cuộc Sống lam lũ, đói khổ nhưng chính tình yêu thương và sự gắn bó đã tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua mọi khó khăn, thử thách.

b) Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

Gợi ý:

– Hoàn cảnh ra đời của bài thơ.

– Xuất thân của những người lính Tây Tiến: những thanh niên trí thức của Hà Nội.

– Vẻ đẹp của người lính can trường chịu đựng gian lao để chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. – Vẻ đẹp hào hoa phong nhã của những chàng chiến binh Tây Tiến.

– Đánh giá về hình tượng người lính trong bài thơ: tiêu biểu cho tâm hồn những chiến sĩ chống Mĩ.

4. a) Phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn trích Đất Nước (trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm) và bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi.

Gợi ý:

– Giống nhau:

+ Đất nước có thiên nhiên tươi đẹp, trù phú,

+ Nhân dân giàu truyền thống yêu nước, đánh đuổi giặc ngoại xâm.

– Khác nhau:

+ Nguyễn Khoa Điềm khai thác hình tượng Đất Nước từ góc nhìn văn hóa dân tộc;

+ Nguyễn Đình Thi lại triển khai góc nhìn từ những năm tháng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

+ Nguyễn Khoa Điềm khai thác để khẳng định tư tưởng: Đất Nước là của Nhân dân; Nguyễn Đình Thi tập trung bút lực để khẳng định tinh thần chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của dân tộc.

Bài viết tham khảo

   “Đất nước tối thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về mình mẹ lặng im… (Tạ Hữu Yên). Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng ta xốn xang da diết! Nhớ những ngày bé thơ đến lớp, cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là đất nước. Tôi mơ hồ chả hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm! Thời gian trôi qua nhanh, mang tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa. Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất nước”. Trong những vần thơ “Đất nước” mến yêu dạt dào cảm hứng ấy, có tác phẩm của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm.

   Hai nhà thơ đã truyền cho tôi cảm xúc mạnh mẽ. Những vần thơ giúp tôi nhận ra chân dung của Đất nước. Bình dị và trong sạch, hồn hậu và nhân ái, nghèo khổ nhưng oai hùng. Có lẽ chính những điều ấy đã khơi gợi cảm hứng cho các bài thơ, đã gieo vào lòng từng nhà thơ bao suy tư và trăn trở. Từ cảm xúc của những ngày sống hết mình với chiến đấu, từ vốn tri thức khá phong phú của mình, qua chương Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã cắt nghĩa sâu xa cho tuổi trẻ thành thị miền Nam lúc này những hiểu biết về lịch sử dân tộc như sống dậy, lay động tâm hồn tác giả. Mỗi câu chuyện cổ tích, những thời khắc lịch sử của những cuộc đấu tranh giữ nước và dựng nước ngày càng thiêng liêng, tha thiết hơn bao giờ…

          Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi .

          Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…”

          mẹ thường hay kể.

         

          Đất Nước có từ ngày đó.

   Trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm man mác âm hưởng sử thi, Yếu tố cổ điển và hiện đại hoà quyện vào nhau tạo thành một cấu trúc hai cực. Đất Nước mình chân thật như cuộc sống. Những câu thơ dài tuôn chảy êm dịu như dòng sông. Một dòng cảm xúc dào dạt âm thầm nhưng mãnh liệt. Cảm hứng về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt nguồn từ những huyền thoại: “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kê”. Dường như nhà thơ đã huy động vào đây nhiều vốn liếng, trí tuệ, sự từng trải, gửi gắm vào đây bao kỉ niệm suy tư. Nguyễn Khoa Điềm đã cùng ta hành hương về với cội nguồn dân tộc và rồi tham gia vào cuộc chiến đấu chung là con đường đúng đăn duy nhất đối với người thanh niên yêu nước: Nhà thơ mạnh dạn để cái “tôi” của mình xuất hiện. Có thể nói rằng, muốn viết những vần thơ tuyệt vời về Đất Nước không chỉ đơn thuần là nhà thơ biết rung động trước một vầng trăng, một tia nắng, một điệu dân ca hay một tiếng thơ cổ điển. Đây là cả một quá trình suy ngẫm, và “nhìn lại” Đất Nước. Từng lời thơ đầm ấm giàu ý thức của tuổi trẻ đã nhận ra vai trò của mình trước thời đại và nhận thức được Đất Nước này là của Nhân dân. Chúng ta phải chiến đấu để bảo vệ Đất Nước tươi đẹp. Nhà thơ phát hiện ra Đất Nước từ cái nhìn tổng hợp, nhiều mặt và dường như đã toàn vẹn.

   Với Nguyễn Đình Thi cảm hứng về đất nước bắt nguồn từ những chất liệu hình ảnh cụ thể, sinh động của cuộc kháng chiến chín năm cứu nước thần thánh của dân tộc. Bài thơ mang tính khái quát về cảm hứng lịch sử và truyền thống của dân tộc. Có phải chăng, cái cảm hứng ấy của hai nhà thơ này đều bắt nguồn từ lòng yêu nước sâu sắc? Do hoàn cảnh và thời điểm lịch sử mà mỗi nhà thơ lại có cảm nhận khác nhau. Cảm hứng về đất nước đến với Nguyễn Đình Thi trong lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra dữ dội và tàn khốc. Người thanh niên Hà Nội ấy, cũng đã bước vào cuộc kháng chiến nhưng tâm hồn anh thanh niên vẫn đủ sức cảm nhận:

              Sáng mát trong như sáng năm xưa

              Gió thổi mùa thu hương cốm mới

              Tôi nhớ những ngày thu đã xa.

   Chính mùa thu Hà Nội ngày hôm nay đã gợi cảm hứng cho tác giả. Nhìn mùa thu này nhà thơ lại nhớ đến mùa thu xưa. Dường như lời hát “Mùa thu rồi ngày hăm ba, ta ra đi theo tiếng gọi sơn hà nguy biến. Rên khắp trời, lời hoan hô quân, dân ta tiến ra trận tiền” còn vang vọng bên tai. Hôm nay đứng giữa đất trời chiến khu trong buổi sáng mùa thu mát lành nhà thơ suy tư về đất nước. Cái cảm giác đầu tiên mà Nguyễn Đình Thi bắt gặp là cái rất riêng, rất đặc trưng về Hà Nội: mùi hương cốm mới. Phải là một chàng trai Hà Nội chính gốc mới có được cái cảm nhận ấy. Phải gắn bó máu thịt với thủ đô mới chan hoà tình thương nơi này đến thế! Niềm cảm xúc dâng trào. Những hồi tưởng về mùa thu trước tuy êm ái nhưng thật ra lòng nhà thơ dạt dào biết bao:

              Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

              Những phố dài xao xác hơi may

              Người ra đi đầu không ngoảnh lại

              Sau lưng thềm năng lá rơi đầy.

   Người ra đi mang dáng dấp của cậu học trò, tỏa sáng lưu luyến bao nhiêu kỉ niệm đẹp với từng con phố dài xao xác hơi may. Có một chút lưu luyến bâng khuâng trong lòng người, nhưng không hề bị luỵ. Câu thơ mang màu sắc lãng mạn tươi mát trong lành. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi cũng bắt đầu vui phơi phới của người tự do. Đúng giữa một vùng chiến khu tự do nhà văn đón nhận đất nước với những điều mới mẻ:

              Mùa thu nay khác rồi 

              Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

              Gió thổi rừng tre phấp phới

              Trời thu thay áo mới

              Trong tiếc nói cười thiết tha.

   Phải có con mắt tinh tế, giao cảm với thiên nhiên nhà thơ mới nhận được sự “thay áo mới của mùa thu. Tất cả như nô nức, muôn âm thanh trong trẻo xanh biếc của trời thu như hoà quyện vào nhau; đất nước như “đang cười, đang nói”. Tâm hồn nhà thơ dạt dào, mênh mông thấy đất nước mình như “rừng tre phấp phới”. Hình ảnh cây tre cũng được các nhà thơ nhắc đến khi viết về đất nước: Ta yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ bát ngát câu Kiều, bờ tre, mái rạ (Chế Lan Viên). Từ xúc cảm mãnh liệt dạt dào nhà thơ cảm nhận được đất nước mình không giống Chế Lan Viên với lối trầm ngâm, lắng đọng mà ở đây, đất nước hiện lên nô nức, tươi mát nhưng cũng hết sức hào hùng:

              Trời xanh đây là của chúng ta

              Núi rừng đây là của chúng ta

              Những cánh đồng thơm ngát

              Những ngà đường bát ngát

   Những dòng sông đo nặng phù sa. Nhà thơ không thiên tả cảnh mà nghiêng về yếu tố tượng trưng. Chỉ một vài hình ảnh cụ thể như: “núi rừng, những cánh đồng, ngả đường, dòng sông” nhà thơ đã vẽ nên đất nước. Một đất nước được khẳng định chủ quyền “Trời xanh đây là của chúng ta”, đồng quan điểm với Lý Thường Kiệt ngày xưa đã khẳng định: “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Mượn một vài hình ảnh cụ thể nhưng có tính khái quát cao nhà thơ đã gửi gắm tình cảm, gửi gắm tâm trạng của mình trong đó. Niềm tự hào nhà thơ thể hiện qua điệp ngữ “của chúng ta”. Rất đẹp, rất thơ với “những cánh đồng, những dòng sông, rừng núi”… Cảm hứng lịch sử với truyền thống dân tộc đã nhắc nhở nhà thơ đừng quên:

              Nước chúng ta

              Nước của những người chưa bao giờ khuất

              Đêm đêm rì rần trong tiếng đất

              Những buổi ngày xưa vọng nói về.

   Có nhìn về quá khứ xa xôi mới quý hơn những ngày mình đang sống. Ở đây càng thấy quý hơn bởi chữ “tâm” của nhà thơ. Không chỉ có cảm nhận đất nước trong hiện tại với biết bao niềm vui chào đón mà còn nhìn lại lịch sử dân tộc. Có phải chăng những tiếng “rì rầm” trong đất ấy, những buổi ngày xưa vọng về thôi thúc bước chân và trái tim nhà thơ? Cảm hứng thời đại đã kết hợp nhuần nhuyễn với cảm hứng lịch sử truyền thống đã tạo ra những câu thơ tuyệt vời. Thi sĩ Gót có nói rằng: “Nhà thơ phải biết nắm lấy cái riêng biệt và từ đó, nếu cái riêng biệt là chân chính nhà thơ biểu hiện cái khái quát”. Nguyễn Đình Thi đã đi theo cái hướng này và đã thành công. Bằng những liên kết sóng đội nhà thơ thường đi từ cái cụ thể đến cái khái quát. Do đó mạch thơ tuôn trào theo cảm xúc không bị dàn trải, Nhà thơ cảm nhận đất nước bằng chính cái tâm hồn của mình, đáy lòng mình, không triết lí, không ồn ào nhưng đầy khích lệ. Chính vì vậy mà đất nước Việt Nam hiện lên rất hiện thực. Đó là một đất nước tạo hình trong đau khổ. Chiến tranh kéo dài không biết bao năm từ Đinh, Lí, Trần, Lê và cho đến ngày hôm nay vẫn chưa hết. Đất nước vẫn còn:

              … Những cánh đồng quê chay máu

              Dây thép gai đâm nát trời chiều.

   Từ xúc cảm không chỉ là niềm vui mà còn là nỗi đau nên trong bài thơ Đất nước lại có những vần thơ “đẫm nước mắt” như thế. Hình ảnh “cánh đồng quê chảy máu” đã tố cáo tội ác của giặc. Lấy máu đỏ mà tưới trên cánh đồng vàng không phải là tàn nhẫn hay sao? Cái hay của Nguyễn Đình Thi là ở chỗ đó. Hiện thực, quá khứ đã hội tụ về đây đó trong bài thơ nhưng với tâm hồn của một người lính mang dáng dấp học trò cảm hứng lãng mạn luôn luôn chi phối:

              Những đêm dài hành quân nung nấu .

              Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

   Tình cảm riêng tư cũng đã trở thành cảm hứng về đất nước. Trong cái chung bao giờ cũng có cái riêng, Nguyễn Đình Thi đã từng nói “Ta yêu em như yêu đất nước”. Chính những tình cảm này đã góp phần tạo nên “Đất Nước” đôn hậu, ân tình và trìu mến hơn.

   Cảm hứng về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng được khơi gợi từ chuyện giữa “anh và em”.

           Đất là nơi anh đến trường

           Nước là nơi em tắm

           Đất Nước là nơi ta hò hẹn

           Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thần.

   Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp nhận Đất Nước trên nhiều phương diện. Từ địa lí cho đến lịch sử, rất cụ thể. Những câu thơ dài xen lẫn những câu ngắn và lối chiết tự khiến cho lời thơ có vẻ trầm tư. Tình yêu lứa đôi nảy sinh trong tình yêu Đất Nước. Cảm hứng Đất Nước bắt nguồn từ cách cảm nhận của nhà thơ qua những trắc nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, Tư tưởng của nhân dân đã chi phối toàn bộ cảm hứng, cấu từ hình tượng thơ. Nhà thơ cảm nhận rằng chính nhân dân đã làm nên Đất Nước và Nước đã muôn đời là của Nhân dân. Đất Nước đối với nhà thơ vừa cụ thể mà cũng huyền ảo. Bởi vì cảm hứng ấy bắt nguồn từ những câu chuyện cố, từ những điều gần gũi thân thương với cuộc sống của chúng ta:

        Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

        Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trống tre mà đánh giặc

        Tóc mẹ thì bởi sau đầu

        Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

   Rất cụ thể, gần gũi và bình dị: “Tóc mẹ… gừng cay muối mặn”. Nhưng đây cũng là sự sáng tạo. Nhà thơ cảm nhận đất nước theo chiều dài, lẫn chiều sâu, xuyên suốt từ quá khứ cho đến hiện tại. Truyền thống, phong tục được coi là chất sống vĩnh hằng. Đất Nước là tất cả những gì có trong cuộc sống, là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng:

        Trong anh và em hôm nay

        Đều có một phần Đất Nước…

        Em ơi em Đất Nước là một phần trong máu xương của mình 

        Phải biết gắn bó và san sẻ

       Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

       Làm nên Đất Nước muôn đời…

    Lời nhắn nhủ có vẻ riêng tư nhưng thật ra tác giả muốn nói chung với tất cả chúng ta. Không phải là lời giáo huấn mà là nỗi tâm tình, đầm ấm và thắm thiết. Những gì đã qua mà nhà thơ chứng kiến, đã biết, đã hiểu là nguồn cảm hứng chủ yếu của bài thơ. Tình yêu nước thể hiện thầm kín trong từng câu thơ. Dường như đối với Nguyễn Khoa Điềm Đất Nước mênh mông rộng lớn lắm nhưng nó không xa lạ gì với chúng ta, nó ở ngay trong ta. Tất cả những gì có trong cuộc sống đều góp phần tạo nên Đất Nước. Đó là cảm nhận của lớp người đi trước. Nhà thơ đã khắc hoạ lại Đất Nước hết sức điển hình. Một Đất Nước Việt Nam với những truyện cổ tích, ca dao, bình dị, chân tình nhưng người dân giàu lòng yêu thương, sẵn sàng hi sinh mình để tạo nên dáng hình xứ sở. Cảm hứng về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ở một giới hạn nào, bởi vì Đất Nước kết tinh trong mỗi con người. Đất Nước hoá thân trong đời sống của mỗi cá nhân và mỗi cá nhân đang sống đều mang di sản Đất Nước của cha ông để lại:

          Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

          Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…

   Vì vậy, chúng ta hôm nay có trách nhiệm giữ gìn và truyền cho thế hệ mai sau. Cảm hứng thời đại xen với cảm hứng truyền thống. Lịch sử dân tộc tạo ra mạch thơ dài không ngơi nghỉ. Nhưng điều đó khiến ta liên tưởng đến Đất Nước mình… Trong từng thời điểm, Đất Nước có những phút giây thơ mộng nhưng qua bao nhiêu chặng đường mà nhà thơ đã đi, Đất Nước sống trong cực nhọc, nặng nề dưới bom đạn, chiến tranh. Nhưng mà cha ông ta:

         Sống vững chãi bốn ngàn năm sing sững

         Lung đeo gươm tay mềm mại bút hoa

         Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng

         Sông hiên ngang mà nhân ái chan hoà.

                                                                      (Huy Cận)

    Chính nỗi đau đớn mà đất nước đã phải chịu đựng làm xốn xang tâm hồn của nhà thơ. Thật vậy, bốn ngàn năm qua Tổ quốc ta chưa hề chấm dứt chiến tranh: “Đ tôi, đất nước tôi, từ thuở còn nằm nôi, sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa…”. Những buổi trưa hè giọng ca dao vẫn cất lên trên đất nước đau thương. Cũng là một đất nước Việt Nam nhưng mỗi nhà thơ đều cảm nhận ở những điều khác nhau. Cảm hứng về đất nước bắt đầu từ hiện thực.

   Tóm lại, cảm hứng đất nước của nhà thơ bắt nguồn từ lòng yêu nước chân thành, sâu sắc! Cảm hứng đó không bắt gặp trong hiện tại mà họ còn tìm về quá khứ. Với những năm tháng gian khổ chiến tranh với truyền thống tốt đẹp của dân tộc… Chính các nhà thơ cũng có một phần tạo ra: “Nam quốc sơn hà tươi đẹp! Để chúng ta có thể tự hào: “Đất nước tôi… sáng ngời muôn thuở. Khi trăng đã vào cửa số đòi thơ…”.

                                                                                 (Sưu tầm)

b) Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau:

         Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
         
         Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Dàn bài gợi ý

– Mở bài:

+ Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.

+ Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên.

+ Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng.

– Thân bài:

   Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến. 

   Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.

+ Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu, hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ:

         Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

         Quân xanh màu lá dữ oai hùm

         Mặt trăng gi mộng qua biên giới

         Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. 

+ Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạo nên tượng đài tập thể nhằm khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt; oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì Sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ..

+ Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.

         Chất bại trang chia hình tượng người lính Tây Tiến.

+ Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bị lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:

         Rải rác biên cương mồ viễn xứ

         Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

         Áo bào thay chiếu anh về đất

         Sông Mã gầm lên khúc độc hành…

+ Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhân chìm người đọc vào cái bị thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chạm vào cái bị thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Và rồi, cái bị thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:

            Áo bào thay chiếu anh về đất

            Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

   Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng.

+ Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại.

– Kết bài:

+ Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi không trở lại.

+ Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện bảo tàng hình ảnh những người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất độc đáo của mình.

Nguồn website giaibai5s.com

Tuần 11: Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học
Đánh giá bài viết