TRẢ LỜI CÂU HỎI

Câu 1. Xác định 3 phần của văn bản này nếu lấy việc em bẻ quẹt những que diêm làm phần trọng tâm. Căn cứ để có thể chia phần thứ hai thành những đoạn nhỏ hơn.

Đoạn trích này có thể chia làm 3 phần:

a. Từ đầu đến đôi bàn tay đã cứng đờ ra: Em bé bán diên ngồi trong bóng tối và giá rét của đêm giao thừa.

b. Từ Chà! Giá quẹt một que diêm... đến về chầu Thượng đế: Em bé đánh một que diêm và tưởng như trông thấy nhiều cảnh đáng thèm muốn.

c. Từ Sáng hôm sau.. đến hết: Thực tế cuộc sống sau mộng tưởng.

   Nếu căn cứ vào những lần em đánh diêm thì có thể chia phần b thành những đoạn nhỏ:

– Em quet que diêm thứ nhất: Thấy vui như ngồi trước lò sưởi.

– Em quẹt que diêm thứ hai: Thấy vui như ngồi trước bữa ăn ngon.

– Em quẹt que diêm thứ ba: Thích thú như trước cây thông Nô-en rực rõ.

– Em quẹt que diêm thứ tư: Sung sướng khi thấy bà đang mỉm cười với em.

– Em quẹt que diêm thứ năm: Hai bà cháu dắt tay nhau bay lên trời, thoát mọi đói rét, đau buồn. 

Câu 2. Qua phần đầu, chúng ta được biết về gia cảnh của em bé bán diêm và thời gian, không gian xảy ra câu chuyện. Những hình ảnh tương phản đối lập được nhà văn sử dụng nhằm khắc họa nỗi khổ cực của cô bé.

Hoàn cảnh của em bé bán diêm: 

+ Gia đình mới sa sút (bà chết, gia sản tiêu tan, dời khỏi chỗ ở đẹp đẽ, ấm cúng ngày trước…)

+ Ở với cha trên gác sát mái nhà, gió lùa rét buốt.

Hình ảnh cô bé bán diêm thật tội nghiệp:

+ Đầu trần, chân đất (đỏ ửng lên rồi tím bầm lại vì lạnh).

+ Quần áo cũ kĩ, tạp dề đựng đầy diêm mang đi bán, tay còn cầm thêm một bao nữa.

+ Bụng đói.

+ Lo âu vì không bán được diêm, không xin được tiền không dám về vì sợ bố đánh.

Bối cảnh: 

+ Ngồi trước góc tường tối tăm giữa phố.

+ Co ro trong đêm giao thừa gió rét căm căm (tuyết phủ trắng xóa cả phố xá, gió bấc thổi vun vút…).

   Nhiều sự tương phản đã diễn ra xung quanh em bé và trong lòng em bé:

+ Quá khứ – hiện tại (yên vui sum họp – sa sút chia lìa)

+ Phố xá tưng bừng tấp nập – em bé lang thang cô đơn nghèo khó.

+ Mộng ảo huy hoàng – thực tế tối tăm khắc nghiệt.

   Sự tương phản làm nổi bật hình ảnh và cảnh ngộ em bé: bị bỏ rơi trong bần cùng, bất hạnh nhưng tâm hồn luôn luôn hướng về điều thiện, cái đẹp.

Câu 3. Chứng minh những mộng tưởng của em bé qua các lần đánh diêm diễn ra theo thứ tự hợp lí. Trong số các mộng tưởng ấy có điều gắn với thực tế, có điều thuần túy chỉ là mộng tưởng.

   Qua các lần đánh diêm, các mộng tưởng đã lần lượt hiện ra, rất hợp lí, phù hợp với hoàn cảnh thực tế và tâm lí của em bé:

+ Từ khao khát được sưởi ấm đến được ăn no và ngon,

+ Đến vui vầy xung quanh cây Nô-en,

+ Đến hồi tưởng về những lần đón giao thừa ngày trước khi bà nội còn sống.

+ Đến cảnh hai bà cháu cầm tay nhau bay lên trời.

   Những cảnh đầu là những cảnh gần với sự thật, lúc em bé đang bị đầy vào cảnh đói rét, không được như mọi người đón năm mới. Những cảnh sau, nhất là cảnh cuối cùng, là những ảo ảnh do em tưởng tượng nàn, không có thực.

Câu 4. Phát biểu cảm nghĩ của em về truyện Cô bé bán diêm nói chung và về đoạn kết nói riêng.

   Cô bé bán diêm đã qua đời trong giấc mộng (má hồng, mới mỉm cười), em đã chết thảm thương trước sự lạnh lùng của cảnh vật xung quanh và của mọi người qua đường. Nhưng cái chết ấy không gây ấn tượng nặng nề. Trước hết là do không khí vui tươi của ngày đầu năm, của cuộc sống đang phát triển tự nhiên theo quy luật. Sau là do hình ảnh ấm áp, tươi tắn của em bé đã chết, nhất là những cái kỳ diệu mà tác giả đã gợi ra từ sự ra đi. của em bé. Cái chết của em bé không hẳn là cái chết bình thường mà nó giống như một sự giải thoát, một sự dạo chơi về nơi thiên đường.

Nguồn website giaibai5s.com

Trả lời câu hỏi và giải bài tập Ngữ Văn 8-Bài 6.Cô bé bán diêm (trích)
Đánh giá bài viết