TRẢ LỜI CÂU HỎI

Câu 1. Cách đặt tên chương, tên các phần trong văn bản:

   Thuế máu là cách gọi của Nguyễn Ái Quốc. Cái tên đã gợi lên một phần sự bi thảm của người dân thuộc địa. Trong đó bao hàm cả nỗi khổ đau, lòng i căm phẫn, thái độ đối với tội ác của bọn xâm lược Pháp.

Câu 2. So sánh thái độ của các quan cai trị thực dân:

– Trước chiến tranh, người An Nam bị xem là giống người hạ đẳng, là những tên An-nam-mít bẩn thỉu, bị đánh đập, đối xử như súc vật.

– Khi cuộc chiến tranh bùng nổ, lập tức họ được các quan cai trị tâng bốc, vỗ về, được phong cho các danh hiệu cao quý như con yêu, bạn hiên.

   Điều này đã nói lên thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của các quan cai trị, các phụ mẫu nhân hậu, Sự lừa bịp đó nhằm để toàn quyền lớn, toàn quyền bé biến dân thuộc địa thành bia đỡ đạn. .

Số phận thảm thương của người dân thuộc địa trong cuộc chiến tranh phi nghĩa được miêu tả rất cụ thể: 

– Họ phải đột ngột xa gia đình, quê hương vì mục đích vô nghĩa, đem mạng sống đổi lấy vinh dự hão huyền.

– Tác giả kể ra biết bao cái chết thảm thương của người lính thuộc địa. trên chiến trường.

– Tác giả dùng giọng điệu vừa châm biếm vừa xót xa: đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ!; lấy máu mình tưới những dòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy, hoặc lấy xương mình chạm trên những chiếc gậy của các ngài thống chế.

– Có người tuy không trực tiếp ra trận nhưng phải làm những công việc phục vụ chiến tranh. Những kẻ khốn nạn ấy đã khạc ra từng miếng phổi! . Đó là sự trả giá rùng rợn của dân bản xứ đối với chiến tranh.

– Tác giả đã đưa ra con số đáng chú ý về số người bản xứ đã bỏ mình trên đất Pháp mấy năm nay trong chiến tranh thế giới thứ nhất.

Câu 3. Các thủ đoạn mánh khóe bắt lính của thực dân:

– Chúng tiến hành vây ráp và cưỡng bức người ta phải đi lính.

– Lợi dụng việc bắt lính để dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với nhà giàu có máu mặt.

– Nhốt người như nhốt súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu chống đối lai.

– Trong khi tiến hành làm những việc trên thì bọn cầm quyền vẫn rêu rao rằng người dân thuộc địa tự nguyện đầu quân.

– Lời tuyên bố trịnh trọng của toàn quyền chỉ càng bộc lộ sự lừa bịp trơ trēn.

   Người dân thuộc địa có thật tình nguyện:

   Người dân thuộc địa trốn tránh, có người tự làm cho mình nhiễm phải bệnh nặng, nếu không có tiền xì ra.

Câu 4. Kết quả sự hinh sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh: Sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh và cách đối xử của chính quyền đối với họ đã được phơi bày trong đoạn trích Thuế máu.

– Khi chiến tranh chấm dứt thì những lời tuyên bố bịp bợm cũng chấm dứt. Những người lính thuộc địa sống sót trở về lại mặc nhiên trở lại giống người hèn hạ.

– Bộ mặt tráo trở, tàn nhẫn của chính quyền thực dân bộc lộ trắng trợn, hèn kém, họ tước đoạt tất cả của cải mà người lính thuộc địa mua sắm được. Trong khi đó thì người anh hùng hôm nào lại bị đối xử tàn tệ, đánh đập thô bỉ như đối với súc vật.

– Khốn nạn hơn nữa, sự hi sinh của người dân thuộc địa không hề mang lại lợi ích gì cho họ. Bọn thực dân còn gây thêm tội ác là cấp thẻ môn bài bán lẻ thuốc phiện cho thương binh người Pháp và vợ con của tử sĩ người Pháp để reo rắc, đầu độc dân bản xứ.

Câu 5.

a. Nhận xét về trình tự bố cục các phần trong chương “Thuế máu”.

Ba phần của chương Thuế máu được bố cục theo trình tự thời gian:

– Trước khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất

– Trong khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất.

– Sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất.

   Với cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân giả nghĩa, trơ trẽn, bản chất tàn bạo của chính quyền thực dân Pháp xung quanh việc bóc lột “thuế máu” được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa cũng được miêu tả một cách cụ thể, sinh động.

b. Phân tích nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo tài tình của tác giả thể hiện qua cách xây dựng hình ảnh, giọng điệu.

   Nghệ thuật châm biếm ảnh được xây dựng có tính xác thực, phản ánh chính xác tình trạng thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta. Bản thân các hình ảnh ấy đã mang tính lí lẽ không thể chối cãi.

– Vừa xác thực, các hình ảnh trong tác phẩm vừa mang tính chất châm biếm, trào phúng sắc sảo và xót xa. Nhiều hình ảnh, nhất là ở phần chiến tranh và người bản xứ, mang đậm sự mỉa mai chua chát, cay đắng cho số phận thảm thương của người lính thuộc địa.

– Gắn với hình ảnh, ngôn từ trong đoạn trích cũng mang màu sắc trào phúng, châm biếm: con yêu, chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do, lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế, lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy, vật liệu biết nói…

– Giọng điệu trào phúng đặc sắc:

+ Giọng điệu giễu cợt, mỉa mai: ấy thế mà, đùng một cái,… 

+ Nhắc lại những mĩ từ, danh hiệu hào nhoáng mà chính quyền thực dân khoác cho người lính thuộc địa để đả kích bản chất lừa bịp, trơ trẽn của chúng. 

+ Sử dụng rất thành công giọng điệu giễu nhại, nghệ thuật phản bác. Dùng liên tiếp các câu hỏi để nêu lên sự thật phũ phàng, đập lại lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền.

Câu 6. Yếu tố biểu cảm trong đoạn trích:

– Sử dụng có hiệu quả biện pháp thuật kể để nêu ra những câu chuyện, những bằng chứng rõ ràng.

+ Các câu chuyện, các sự kiện, con số được nêu ra đều lấy từ thực tế sinh động nên không thể chối cãi.

+ Để tăng tính xác thực, tác giả còn dẫn ra ý kiến của người khác hay lời lẽ của chính đối tượng đả kích.

– Các hình ảnh được xây dựng mang tính biểu cảm cao:

+ Làm toát lên số phận đáng thương của người dân thuộc địa, bộ mặt giả nhân, giả nghĩa, bỉ ổi của chính quyền thực dân. *

+ Hệ thống hình ảnh và giọng điệu của tác phẩm khiến người đọc thêm căm phẫn kẻ thống trị tàn ác, có niềm xót xa, thương cảm cho thân phận người dân nô lệ bị lợi dụng, bị bóc lột bằng “thuế máu”.

– Trong đoạn trích, yếu tố tự sự và yếu tố biểu cảm được kết hợp chặt chẽ, hài hòa.

Nguồn website giaibai5s.com

Trả lời câu hỏi và giải bài tập Ngữ Văn 8-Bài 26.Thuế máu (Trích Bản án chế độ thực dân Pháp)
Đánh giá bài viết