I. TRẢ LỜI CÂU HỎI 

Câu 1. Hai câu thơ đầu là tiếng than và lời tâm sự của Tản Đà với chị Hằng. Theo em, Tản Đà có tâm trạng chán trần thế vì:

   Nhà thơ muốn làm thằng Cuội, lên cung trăng chơi cùng chị Hằng vì ông buồn chán cuộc sống nơi trần thế, thích làm bạn cùng gió cùng trăng:

                       Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

                       Trần thế em nay chán nửa rồi.

   Nhà thơ nói chuyện muốn lên chơi với chị Hằng, nhưng thực ra ông muốn giãi bày tâm sự của mình.

– Cái buồn chán là thực trong tâm trạng của Tản Đà. 

– Khi đó cuộc sống có nhiều điều đáng buồn chán, nhất là đối với một tâm hồn thi sĩ như ông. Đất nước bị mất chủ quyền, nỗi nhục mất nước vẫn còn đấy. Mặt khác, ông buồn vì mình là người tài hoa nhưng số phận nhiều lận đận.

– Vì không đủ sức để thay đổi hiện thực ông muốn thoát ra khỏi nó, muốn làm thằng Cuội lên chơi cung trăng.

Câu 2. Có nhận xét, Tản Đà là một hồn thơ “ngông”. Nghĩa của “ngông”. Phân tích cái “ngông” của Tản Đà trong ước muốn được làm thằng Cuội.

– Tản Đà với cách sống dường như nằm giữa cõi mộng và cõi thực, giữa cái tỉnh và cái điện, không giống với một ai, từ lâu đã được mệnh danh là .. “ngông”. Nhưng thực chất của cái ngông đó là:

                  Thế gian có bác Tản Đà

           Quê hương thì có, cửa nhà thì không

                  Nửa đời Nam, Bắc, Tây, Đông

           Bạn bè sum họp vợ chồng biệt li.

   Sống giữa cảnh đất nước lầm than và nhố nhăng, Tản Đà không phải không đủ sức tạo cho mình một cuộc sống sung túc, thậm chí giàu sang. Nhưng Tản Đà đã không nhập cuộc. Tản Đà lánh đục theo trong, tự mình tìm kế sinh nhai để rồi gánh chịu sự túng quẫn suốt đời, nhất là trong những năm cuối đời. Ông sẵn sàng đánh đổi cái nghèo vật chất để có lấy cái giàu tinh thần.

– Đó chính là cái “ngông” của Tản Đà mà người đời từ lâu đã tinh ý nhận ra để không những không ghét, không khó chịu, lại còn lấy làm vui, làm quý, bởi ẩn sau đó là nhân cách, là đạo lí làm người, là giá trị nhân bản.

– Cái “ngông” của Tản Đà một phần là cá tính tự nhiên, nhưng một phần cũng là do Tản Đà phải tự tạo để phản ứng với thứ ô trọc giữa cuộc đời.

Câu 3. Hình ảnh cuối bài thơ: Tựa nhau trông xuống thế gian cười. Ý nghĩa của cái cười ở đây. 

   Cái “ngông” của Tản Đà trong bài thơ tập trung chủ yếu ở câu cuối:

              Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

              Tựa nhau trông xuống thế gian cười .

   Ở đây ông tự cho mình là người ở vị trí cao hơn tất cả, còn cuộc sống nơi trần thế chỉ là trần tục, thấp hèn, đáng cười. Ông cười tất cả. Đó chính là cái “ngông” của Tản Đà và cũng chính là ý nghĩa của cái cười trong câu thơ. 

Câu 4. Những yếu tố nghệ thuật đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ:

   Muốn làm thằng Cuội là bài thơ độc đáo, thú vị, giọng thơ nhẹ nhàng, thanh thoát. Trí tưởng tượng lại phong phú kì diệu. Chất mộng ảo, chất ngông thấm đẫm bài thơ.

   Yếu tố làm nên sức hấp dẫn của bài thơ chính là sự tưởng tượng bay bổng của một tâm hồn thi sĩ lãng mạn.

II. LUYỆN TẬP

Câu 1. Nhận xét về phép đối trong các câu 3, 4, và 5, 6:

– Phép đối trong hai câu 3, 4: Nhà thờ cất tiếng hỏi:

               Cung quế đã ai ngồi đó chưa?

Nhưng không đợi trả lời, mà là để ngỏ lời:

               Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Phép đối ở đây không phải là sự trao đổi giữa hai người mà chỉ có nhà thơ “Cung quế” đối với “Cành đa”, “ngồi đó chửa” đối với “nhắc lên chơi”.

– Phép đối trong hai câu 5, 6: Phép đối ở đây diễn ra rất tế nhị:

                    Có bầu có bạn can chi tủi,

                    Cùng gió, cùng mây thế mới vui.

+ “Bầu bạn” với “gió mây”

+ “Can chi tủi” với “thế mới vui” rất chỉnh.

   Lời thơ tuy có phong tình nhưng vẫn không buông thả, thi sĩ thoát khỏi trần thế ngột ngạt, tầm thường để đến một nơi khác lạ. Ở nơi trần thế, thi sĩ cô đơn không có bầu bạn, không có tri âm tri kỉ, điều đó thật là tủi cực. Nay lên cung trăng với chị Hằng và tha hồ mở lòng ra “cùng gió, cùng mây” và theo ông “thế mới vui”. Nghĩa là giải tỏa được nỗi buồn chán trong lòng.

   Phép đối ở những câu thơ trên rất tế nhị, nhẹ nhàng mà vẫn làm nổi bật được sắc thái biểu cảm.

   Cách nói ở hai câu 5, 6 không có dấu hiệu về ham muốn vật chất tầm thường, chỉ có ý nghĩa trân trọng những giá trị tinh thần cao đẹp.

Câu 2. So sánh ngôn ngữ và giọng điệu ở bài thơ này với bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy có nhiều điều thú vị.

   Ở bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy giàu nhạc điệu, tạo nên vẻ đài các, trang nhã rất chuẩn mực của thơ Đường.

   Nghệ thuật dùng từ và diễn tả tài tình, đọc lên có một cảm giác bâng khuâng một nỗi buồn man mác. .

   Nhà thơ đã sử dụng thành thạo các từ láy, từ tượng hình, tượng thanh, cách chơi chữ đồng âm trong thơ.

   Ở bài thơ Muốn làm thằng Cuội, ta thấy giai điệu thật nhẹ nhàng, thanh thoát, pha chút tình tứ hóm hỉnh, có nét phóng túng, ngông nghênh của một hồn thơ lãng mạn. Lời thơ giản dị trong sáng gần với những lời nói thường.

   Luật vẫn chặt chẽ nhưng không còn là thứ trói buộc tâm hồn thi sĩ, tâm sự cứ tự nhiên tuôn chảy như không hề câu nệ một khuôn sáo nào. Sức hấp dẫn của bài thơ chính là ở đó.

   Vẫn số câu, số chữ ấy, ý tứ vẫn hàm súc, chất chứa tâm trạng, nhưng nó không mực thước, trang trọng, đăng đối như bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quang.

Nguồn website giaibai5s.com

Trả lời câu hỏi và giải bài tập Ngữ Văn 8-Bài 16.Muốn làm thằng cuội
Đánh giá bài viết