I. TRẢ LỜI CÂU HỎI

Câu 1. Phân tích cặp câu 1 – 2, tìm hiểu khí phách và phong cách của nhà chí sĩ khi rơi vào vòng tù ngục.

   Hai câu 1, 2 là hai câu đề: Giới thiệu vấn đề cần nói tới.

          Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu

          Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

   Cách vào đề rất khéo. Ở đây nhà thơ muốn nói tới hoàn cảnh mình bị bắt giam. Ý của hai câu có thể diễn đạt lại:

+ Vào tù mình vẫn giữ được tài trí và cách sống của mình: là người có tài cao, chí lớn, khác thường (hào kiệt, là người luôn giữ dáng vẻ lịch sự, trang nhã (phong lưu).

+ Mình ở tù không phải do bị bắt mà vì chạy mỏi chân (tức hoạt động cách mạng đã nhiều), tạm thời nghỉ ở đây.

   Tác giả có nói đến việc bị bắt vào nhà tù nhưng không nhấn khía cạnh rủi ro, đau khổ hoặc âu lo, khiếp sợ. Ngược lại, nhà thơ coi việc đó chẳng có gì khủng khiếp, đáng buồn, đó chỉ là những giây phút nghỉ ngơi sau những ngày hoạt động sôi nổi. Mặc dầu trong hồi kí cụ viết: “Thật từ lúc cha sanh mẹ đẻ đến nay, chưa lúc nào nếm mùi thất bại chua xót như bây giờ”.

Câu 2. Hai câu 3 – 4 là hai câu thực: Dùng tả cảnh hay trình bày sự việc phần đề đặt ra.

          Đã khách không nhà trong bốn bể

          Lại người có tội giữa năm châu.

   Hai câu thơ này khác với giọng điệu cười cợt, vui đùa như hai câu đề. Ở đây như lời tâm sự không phải để than mà để nói lên nỗi đau lớn lao trong tâm hồn người anh hùng.

   Tả người tù mà nói “khách không nhà” với “năm châu”, thì thật đúng là cái cười nhạo báng đối với nhà tù của bọn quân phiệt tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc).

   Chữ “đã”, chữ “lại” mở đầu hai câu thực càng nhấn mạnh thêm tình – cảnh tù đày của người chiến sĩ cách mạng. Song gắn “khách không nhà” với “năm châu”, nhà thơ như muốn vẽ chân dung người tù một cách phóng khoáng hơn.

Câu 3. Hai câu 5, 6 là hai câu luận: Bàn luận mở rộng vấn đề.

          Dang tay ôm chặt bộ kinh tế

          Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

   Ở đây tác giả khẳng định: chí lớn tài cao của người chiến sĩ cách mạng không cảnh tù đày nào có thể đè bẹp.

   Lối nói khoa trương đã thể hiện sự lãng mạn, chất anh hùng ca khiến cho con người không còn nhỏ bé nữa mà có tầm vóc lớn lao như thần thánh. . Tuy bị bắt nhưng người tù vẫn “dang tay”, “mở miệng cười” thể hiện thái độ coi thường, coi khinh mọi khó khăn trước mắt.

Câu 4. Hai câu 7, 8 là hai câu kết: Nâng cao vấn đề hoặc bày tỏ cảm xúc của tác giả.

          Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp

          Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

   Trong bài thơ này, hai câu kết khẳng định niềm tin của nhà thơ vào tương lai, thể hiện thái độ coi thường lao tù nguy hiểm.

   Hai tiếng “còn” đứng cạnh nhau tạo nên âm hiệu khẳng định mạnh mẽ ý chí đấu tranh cho sự cứu nước, đó như hai tiếng trống chắc nịch, âm vang kích động lòng người, kết thúc một bản hùng ca.

II. LUYỆN TẬP 

   Ôn lại những kiến thức đã học về thể thất ngôn bát cú Đường luật. Em hãy nhận dạng thể thơ của bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác về phương diện số câu, số chữ, cách gieo vần.

   Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác viết bằng thể thất ngôn bát cú Đường luật. Chữ thứ hai của cậu một là chữ “là” thuộc thanh bằng; như vậy bài thơ này được viết theo luật bằng thể thất ngôn bát cú Đường luật.

   Chữ thứ hai của câu một là chữ “là” thuộc thanh bằng, như vậy bài thơ này được viết theo luật bằng.

   Chữ “lưu” ở cuối câu một thuộc thành bằng dùng để gieo vần. Đây là căn cứ xác định bài thơ này có vần bằng. Toàn bộ có 5 chữ thuộc thanh bằng ở cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8: “lưu – tù – châu – thù – đâu”.

Nguồn website giaibai5s.com

Trả lời câu hỏi và giải bài tập Ngữ Văn 8-Bài 15.Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác
Đánh giá bài viết