THAM KHẢO MỘT SỐ BÀI SAU

THẦY TÔI

– Sao mày vô tâm thế? Thầy Long đã mất rồi!

– Thầy Long nào?

– Cái ngữ mọt sách – (bọn bạn thường gọi tôi là “mọt sách”)

– Thầy “Long phương pháp” dạy chúng mình hồi cấp 3, chứ còn thầy nào nữa.

Nghe thằng bạn thông báo, tôi không tin vào tai mình nữa. Thầy Long mất rồi sao? Chân tay bủn rủn, song không một chút chần chừ, tôi dắt xe máy phóng vội về quê.

– Thưa bác, đây có phải nhà em Lan không ạ?

– Vâng! Ông là…

– Em là thầy giáo dạy trò Lan nhà bác.

… Nghe tiếng thầy Long. Song tôi vẫn cứ ngấp ngó bên bức vách, không dám ló mặt ra nhìn thấy.

– Cực cái thân cháu Lan lắm thầy ạ! – Miệng méo xệch, giọng bố tôi rầu rĩ. Thầy coi, cháu là đứa rất ham học. Bắt cháu bỏ học là một sự đau lòng. Song biết làm sao được. Chẳng giấu gì thầy, nhà tôi rất nghèo, có năm mống ăn học. Thầy coi, nếu cháu Lan không dừng học sẽ “treo niêu” cả nhà…

Quả vậy, nhà tôi nghèo lắm. Ở vùng quê tôi, gió Lào khắc nghiệt, đất cằn đá cỗi, suốt năm mất mùa. Bố mẹ tôi tuổi đã cao, nhà lại đông con ăn học. Hai cụ quanh năm làm lụng quần quật cũng không đủ cơm cháo nuôi cả một đàn con. Hồi ấy tôi học cấp 3. Trường lại xa nhà 12km. Không có tiền ở trọ, ngày ngày tôi phải cuốc bộ đi chừng ấy cây số. Có hôm, không có gì để ăn dù là thìa cháo, thương con, trong cảnh bất lực, đang bốn giờ sáng bố mẹ tôi lộn ra vườn chặt liền một lúc mấy cây mía. Vào, cả hai róc từng lóng cho tôi ăn lót dạ. Nhìn tôi nhai mía, bố mẹ tôi rơm rớm nước mắt. Gay nhất là ở lại lớp để học cả ngày. Không có cơm, chỉ đem theo mấy khúc mía. Trưa đến, bọn bạn đều có cơm hoặc khoai đem theo để ăn. Riêng tôi, sợ chúng bạn cười, liền trốn vào một bụi rậm lụi cụi tước mía ăn một mình. Tủi thân, vừa nhai mía vừa nuốt nước mắt. Ăn xong, chui khỏi bụi rậm, vào lớp, tôi và cười nói vui vẻ như không. Có hôm, sau một ngày học căng thẳng, bụng lại trống rỗng, đi rớt sau đồng bọn, về đến giữa cánh đồng, hoa mắt tôi ngã ngất bên ruộng lúa. May có một người đi thăm đồng, nhìn thấy, chị ta hô hoán lên, tôi mới được cứu sống. Thật không còn cách nào khác, buộc lòng bố mẹ tôi đành phải bắt tôi nghỉ học. Không được đến trường, suốt ngày tôi như người mất hồn.

… Nghe bố tôi mãi trình bày gia cảnh mình; hiểu được sự tình, thầy tôi – một người thầy mà những năm tháng tuổi trẻ đều gửi mình chốn Trường Sơn khói lửa, nơi rừng thiêng nước độc – bặm môi đi đi lại lại trong ngôi nhà trống hơ trống hoác, mặt đăm đăm nghĩ ngợi. Sau một hồi cắn môi cân nhắc, giọng thầy quả quyết.

– Thôi thế này bác, theo em là bác cứ cho cháu đến trường. Em sẽ trích một phần lương chu cấp cho cháu. Còn nghỉ học là hạ sách… . Trước quyết định táo bạo của thầy, mẹ tôi trợn tròn mắt, còn bố tôi miệng méo xệch há hốc ra kinh ngạc. Riêng tôi từ bên bức vách, quá xúc động trước tấm lòng của thầy, tôi lồm cồm bò tới ôm lấy hai bàn tay của thầy, nói trong sự nghẹn ngào, giàn giụa nước mắt:

– Thầy! Thầy ơi…!

Từ đấy tôi lại được đến trường trong sự đùm bọc che chắn của thầy. Tôi lao vào học như điên, mang theo một ý chí, một nghị lực . lớn. Mỗi một tuần, ngoài giờ học chính khóa, tôi còn đến nhà thầy bốn buổi để ôn luyện chuẩn bị thi học sinh giỏi sắp tới. Hai thầy trò như bóng với hình. Thầy thương yêu tôi như con. Hình như thầy sinh ra là vì tương lai những người học trò như tôi. Trong giảng dạy, thầy luôn luôn nhấn mạnh về mặt phương pháp, từ đầu tiên thầy nói bao giờ cũng là “phương pháp”; cái gì cũng “phương pháp, phương pháp” (nên bọn bạn đặt cho thầy biệt hiệu là “thầy Long phương pháp”).

Tôi quên sao được lần ấy: Đó là lần hai thầy trò đang chụm đầu vào trang sách. Đột nhiên hai tay giật giật, mặt tái mét, thầy bị ngã chúi vào bên bàn. Vết thương thời còn chiến trường chống Mĩ lại hành hạ thầy. Tôi hốt hoảng gọi người đến cấp cứu, và thân con gái chẳng biết làm gì hơn ngoài ôm lấy thầy mà khóc như một đứa trẻ.

Rồi kì thi học sinh giỏi cũng đến. Lần đi ấy, lưng tiền thầy trò ít ỏi, có hôm hai thầy trò ăn thêm ngô nướng cho chắc bụng. Cả hai vừa ăn vừa nhìn nhau cười.

– Lan ơi! Tuyệt hết chỗ nói! Phương pháp ấy đã có kết quả… Em đạt giải nhất môn Văn toàn quốc rồi. Phương pháp, ôi phương pháp muôn năm…

Đang ngồi trong nhà, nghe thấy báo tin, tôi lao tới bên thầy. Cái lao quá mạnh làm tấm thân gầy gò của thầy ngã chỏng quẹo giữa sân.

– Ôi! Trời đất! Sao lại được như thế này!- Tôi buột miệng kêu to như thét. .

Sung sướng, cả hai thầy trò ôm lấy nhau mà cười. Tôi nhận thấy . trong đôi mắt trũng sâu của thầy ngân ngấn lệ.

Thế rồi ba năm ngồi ghế phổ thông trung học cũng trôi nhanh. Tôi được chuyển thẳng lên đại học. Trước lúc chia tay, hai thầy trò cứ ngơ ngác nhìn nhau, tay tìm tay bịn rịn. Không cầm được lòng mình, tôi sà vào ngực thầy khóc tức tưởi…

Vào đại học, sau năm năm được học bổng toàn phần, tốt nghiệp tôi thành giảng viên, rồi được đi học nước ngoài bảo vệ luận án tiến sĩ… Sách vở và bao nhiêu lo toan đời thường chi phối… tôi cũng ít có dịp về quê thăm thầy. Thế mà đã 29 năm trôi qua… .

Tôi đến nhà thầy. Muộn quá mất rồi! Người ta đã đưa thầy đến nghĩa địa. Ai cũng bảo đám tang thây to nhất quê tôi, người đưa tang kéo dài đến hàng cây số, chật đường chật chợ, chỉ thiếu kẻ vô ơn là tôi… Thế là vĩnh viễn và mãi mãi không được gặp người thầy, vị ân nhân, “người cha” của năm xưa nữa rồi! Tôi như muốn thét lên: “Thầy ơi! Em là người có tội…”. Trời đất như điên đảo, đổ nhào trước mắt. Quả là tôi là con mọt sách vô dụng… Quá ân hận, xót xa trước sự vô tâm của mình, tôi cắn môi đến bật máu…”

Tôi tìm đến nơi an nghỉ cuối cùng – cõi vĩnh hằng của người thầy năm xưa. Tôi ngồi thụp xuống chết lặng, mắt nhòa lệ! Trên mộ thầy, từng bầy bướm trắng bay rập rờn quanh những vòng hoa. Chúng chập chờn, đôi từng đôi như những cặp trò nhỏ vây quanh lấy thầy như hồi năm nào… .

Ý Thế Lê

THẦY GIÁO MỚI

(Thứ ba 18)

Thầy giáo mới ngay từ sáng hôm nay đã làm cho tất cả chúng tôi đều rất thích.

Khi chúng tôi đang lần lượt vào lớp, và thầy đã ngồi vào chỗ của mình, chốc chốc chúng tôi lại thấy những học trò của thầy năm ngoái, đi qua đều bước vào cửa chào thầy. “Chào thầy ạ! Chào thầy Péc-bô-ni ạ!” Có những cậu bước vào bắt tay thầy, rồi vội vàng chạy: ra. Rõ ràng đám học trò cũ đều rất mến thầy, và rất muốn lại được học với thầy nữa. Còn thầy chỉ thấy trả lời đơn giản: “Chào cậu!”, và bắt những bàn tay chìa ra phía thầy, nhưng chẳng nhìn ai cả. Mỗi chào lại, thầy đều nghiêng mình vẻ nghiêm trang, mặt quay về phía cửa sổ, nhìn sang mái nhà trước mặt. Đáng lẽ làm cho thấy vui, thì những sự biểu lộ tình cảm của học trò hình như làm cho thấy đau * khổ. Rồi lại đến lượt thầy nhìn chúng tôi, những học trò mới, hết đứa này đến đứa khác, một cách chăm chú. Vừa đọc chính tả, thầy vừa bước xuống bục và đi vào giữa các dãy bàn của chúng tôi. Chợt nhìn thấy một cậu mặt đỏ ửng và đầy những nốt sưng đỏ, thầy liền ngừng đọc, lấy hai tay ôm đầu cậu bé, hỏi cậu làm sao, rồi sờ trán xem cậu có sốt không. Trong lúc đó, thì ở sau lưng thầy, một cậu đứng ngay lên trên ghế và bắt đầu múa như con rối. |

Thầy giáo quay ngoắt lại, cậu ta hoảng hốt vội ngồi xuống và cúi gằm mặt, chắc chắn thế nào cũng bị mắng một trận. Nhưng thầy : – Péc-bô-ni đặt tay lên vai cậu bé dại dột và nói: “Đừng làm thế nữa nhé!”. Chỉ thế thôi. Rồi thầy lại trở về chỗ và đọc nốt bài chính tả.

Xong bài chính tả, thầy lặng thinh nhìn chúng tôi một lúc, rồi nói với chúng tôi, giọng thầy rất to, nhưng hết sức hiền từ: “Nghe đây, các con ạ! Chúng ta sẽ sống chung với nhau cả một năm, thầy trò ta đều cố gắng làm sao cho năm nay thật tốt. Các con phải chăm và ngoan. Thầy không có gia đình. Chính các con sẽ thay cho gia đình của thầy. Năm ngoái | thầy còn mẹ; nhưng nay mẹ thầy đã mất rồi. Nay thầy chỉ có một mình, thầy chỉ còn các con trên đời này nữa mà thôi. Thầy chẳng còn ý nghĩ nào, tình cảm nào ngoài các con ra. Các con phải là đàn con của thầy. Thầy sẽ rất thương các con, và các con cũng phải thương thầy. Thầy không muốn phải phạt một ai. Các con phải tỏ ra cho thấy các con là những đứa trẻ chân thành, dũng cảm. Trường học của chúng ta sẽ là một – gia đình, và các con sẽ là niềm an ủi và niềm tự hào của thầy. Thầy không yêu cầu các con phải trả lời, vì thầy tin chắc rằng trong lòng tất cả các con đều đã nói “vâng ạ”, và thầy xin cám ơn các con”

Vừa lúc ấy thì hết giờ học. Tất cả chúng tôi đều im lặng ra khỏi lớp. Cậu học trò lúc nãy đứng lên ghế làm trò, bước lại gần thầy, và hỏi thầy giọng run run: “Thưa thầy, thầy có tha lỗi cho con không ạ?”.

Thầy giáo hôn vào trán cậu và nói: “Thế là tốt con ạ! Thôi con về đi”.

(Theo A-mi-xiNhững tấm lòng cao cả)

VĨNH BIỆT NGÀI “TÔI KHÔNG THỂ”

Lớp bốn mà cô Donna đang dạy cũng giống như bao lớp học khác mà tôi đã gặp qua. Học sinh ngồi thành năm dãy n bàn. Bàn giáo viên được đặt ở vị trí đối diện. Có một bảng thông báo để dán các bài làm của các em học sinh. Xét về mọi mặt thì đây đúng là một lớp tiểu học tiêu biểu. Duy chỉ có một điểm khác biệt mà tôi bắt gặp ngay từ khi vừa mới bước chân vào lớp là dường như các em học sinh đang làm một công việc gì đó rất hào hứng.

Cô Donna là giáo viên có nhiều kinh nghiệm ở một thị trấn nhỏ thuộc bang Michigan, và chỉ còn hai năm nữa là cô về hưu. Hơn nữa cô còn là thành viên tự nguyện trong dự án phát triển nhân sự cấp quốc gia do tôi tổ chức và phát triển. Buổi học hôm nay của lớp, cô tập trung vào những ý tưởng nghệ thuật và ngôn ngữ để giúp học sinh cảm thấy mạnh mẽ hơn, tự hào hơn và có trách nhiệm hơn với bản thân. Công việc của cô Donna là có mặt ở các lớp để thực hành những khái niệm đã được trình bày từ trước. Còn công việc của tôi là dự giờ các lớp học và khuyến khích áp dụng những khái niệm mới đó.

Tôi chọn một chỗ trống ở cuối lớp và quan sát. Tất cả học sinh đang loay hoay viết vào một tờ giấy. Cô bé mười tuổi ngồi kế tôi cũng đang viết vào giấy những câu bắt đầu bằng cụm từ “Tôi không thể”. “Tôi không thể đá bóng qua khỏi tầng lầu hai”, “Tôi không thể làm phép chia từ ba số trở lên”, “Tôi không thể khiến cho Debbie thích tôi”.

Cô bé đã viết tới nửa trang giấy rồi mà vẫn không có ý định dừng tay. Cô bé tiếp tục ghi với tất cả sự quyết tâm và kiên nhẫn. Tôi đi ngược lên, liếc nhìn vào tờ giấy của những học sinh khác. Tất cả đều đang viết, mô tả những gì chúng không thể làm được.

“Tôi không thể hít đất được mười cái”.

“Tôi không thể chỉ ăn mỗi một cái bánh kẹp”.

Tới lúc này thì tính tò mò của tôi bắt đầu trỗi dậy. Tôi định sẽ tới trao đổi với cô giáo để biết chuyện gì đang xảy ra. Khi tiến đến gần, tôi mới để ý thấy cô cũng đang cắm cúi viết. Tôi nghĩ tốt hơn hết là không nên làm gián đoạn.

“Tôi không thể thuyết phục me của John đến dự buổi hoc phu huynh học sinh”, “Tôi không thể thuyết phục Alan dùng lời lẽ thay vì những nắm đấm”.

Không thể biết tại sao cả thầy lẫn trò đều cứ nghĩ tới một câu phủ định thay vì phải viết những câu tích cực hơn như “Tôi có thể”. Tôi đành quay lại chỗ của mình và tiếp tục quan sát. Học sinh viết thêm mười phút nữa. Đa số viết kín hết tờ giấy. Có em còn viết lan sang cả tờ khác.

“Hãy viết cho xong cấu các em đang viết, đừng viết sang câu mới”. Đó là lời hướng dẫn mà cô Donna dùng để báo hiệu kết thúc thời gian làm bài. Sau đó, cô hướng dẫn học sinh gấp đôi tờ giấy lại và đem lên nộp. Khi các em tiến tới bàn giáo viên, chúng cho bài làm của mình vào một thùng gỗ rỗng. Khi tất cả bài viết của học sinh được gom lại, cô Donna cũng cho vào thùng tờ giấy của chính mình.

Xong xuôi, cô đậy nắp lại, ôm hộp rồi dẫn cả lớp đi ra khỏi phòng học. Học sinh theo sau cô giáo, còn tôi thì đi theo sau chúng. Đi được nửa hành lang, cả đoàn dừng lại. Cô Donna bước vào phòng bảo vệ, tìm kiếm khắp nơi và cuối cùng trở ra với cái xẻng. Một tay cầm xẻng, một tay giữ lấy cái thùng, cô giáo dẫn đám học trò đi ra khỏi dãy lớp học để đến góc cuối sân trường. Ở đó, họ bắt đầu đào.

Công việc đào xới diễn ra trong mười phút vì các em thay phiên nhau đào. Khi đào được một cái lỗ sâu khoảng ba bộ, chúng dừng tay. Cái thùng được đặt xuống đáy và nhanh chóng được lấp lại.

Ba mươi mốt cô cậu khoảng mười, mười một tuổi này đứng xung quanh ngôi mộ vừa mới đắp. Mỗi em đều có ít nhất một trang giấy viết lên những câu “Tôi không thể” trong cái “hòm” đang nằm sâu dưới ba tấc đất này. Và cô giáo cũng vậy. Tới lúc này, cô Donna tuyên bố: “Các em hãy nắm tay nhau và cúi đầu xuống”. Đám học trò nhỏ làm theo. Chúng nhanh chóng đứng thành một vòng tròn quanh * ngôi mộ, tay trong tay như một sợi dây liên kết. Chúng cúi đầu xuống và chờ đợi. Cô Donna đọc một điếu văn. “Hôm nay chúng ta có mặt nơi đây là để tưởng niệm Ngài “Tôi không thể”. Ngày nào mà “Tôi không thể” còn sống trên cõi đời này thì ngày đó Ngài còn tác động đến cuộc sống cũng như con người chúng ta. Không may là ở đâu người ta cũng gọi tên Ngài, trong các trường công lập, tòa thị chính, tòa nhà Quốc hội, và thậm chí trong cả Tòa Bạch Ốc”.

Hôm nay chúng ta đã đưa Ngài “Tôi không thể” đến nơi an nghỉ cuối cùng và dâng tặng cho Ngài một tấm bia ghi rõ tên tuổi của Ngài. Những gì Ngài đang làm dở dang sẽ được các anh chị Ngài như là “Tôi có thể”, “Tôi sẽ”, “Tôi sẽ làm ngay tức thì” tiếp nối, dù rằng họ không được nổi tiếng và chắc chắn cũng không mạnh mẽ và quyền thế như Ngài. Nhưng có lẽ một ngày nào đó, các anh chị Ngài sẽ để lại một dấu ấn to lớn hơn cho thế giới.

“Cầu cho Ngài “Tôi không thể được yên nghỉ và cũng cần cho tất cả những người đang có mặt tại đây sẽ có một cuộc sống tốt đẹp hơn và sẽ vững tiến khi vắng mặt Ngài. Amen”.

Khi nghe bài điếu văn, tôi nhận ra rằng các em học sinh sẽ không bao giờ quên được ngày hôm ấy. Sự kiện này là một biểu tượng và hàm ý cho cuộc sống của chúng. Đó là một kinh nghiệm trí tuệ khắc sâu mãi mãi trong tiềm thức cũng như trong nhận thức của các em. Viết lên những từ “Tôi không thể”, mang chúng đi chôn và lắng nghe bài điếu văn. Đó là một nỗ lực sáng tạo lớn về phương diện của người giáo viên. Và như thế vẫn chưa đủ. Kết thúc bài điếu văn, cô dẫn đám học trò nhỏ về lớp và làm lễ tưởng niệm người đã khuất. Họ tổ chức ăn mừng sự ra đi của Ngài “Tôi không thể” bằng bánh ngọt và trái cây. Trong buổi lễ ấy, cô Donna cắt một miếng giấy cứng làm thành một mộ bia lớn. Cô viết chữ “Tôi không thể” ở trên cùng, đặt cụm từ “Chúc Ngài được yên nghỉ” ở giữa và ngày tháng ở dưới chót.

Miếng mộ bia này được treo trong lớp như là sự nhắc nhở trong suốt cả năm học. Lâu lâu, em nào lỡ quên mà nói “Em không thể” thì cô Donna chỉ việc trỏ tay vào cụm từ “Chúc Ngài được yên nghỉ”. Lập tức, học trò ấy sẽ nhớ ra rằng “Tôi không thể” đã chết và nói lại một câu khác như “Tôi có thể”, “Tôi sẽ làm được…”. Tôi không phải là học sinh của cô Donna, mà trái lại cô còn là học viên của tôi. Tuy nhiên, sau ngày ấy tôi đã học được từ cô một bài học đáng ghi nhớ.

Giờ đây, những năm sau đó, khi nghe được cụm từ “Tôi không thể”, tôi lại liên tưởng tới cái đám tang ở lớp bốn ấy. Và giống như các em học sinh, tôi cũng nhớ rằng “Tôi không thể” đã chết.

Philip B. Childs

THẦY GIÁO CỦA BỐ

Ngày hôm kia lúc sắp ăn chiều, đọc tờ báo, bố bỗng kêu lên một “tiếng ngạc nhiên và nói với chúng tôi.

“Thế mà bố cứ tưởng thầy ấy đã mất từ hai mươi năm nay, thầy giáo đầu tiên của bố ấy mà. Thì ra thầy Crô-xet-ti đáng thương vẫn còn sống! Năm nay thầy đã tám mươi bốn tuổi rồi! Bố vừa đọc thấy tin Bộ tặng thầy huân chương biểu dương công trạng vì sáu mươi năm trong ngành giáo dục của thầy. Sáu mươi năm! Con nghe rõ chứ? Thầy chỉ mới về hưu cách đây có hai năm thôi”.

Bố nói thêm: “Con à, ta sẽ đi thăm thầy”.. . Và suốt cả buổi tối, bố chỉ nói toàn chuyện người thầy giáo của mình.

Cái tên của người thầy giáo đầu tiên đã gợi cho bố nhớ lại hàng nghìn kỉ niệm của thời thơ ấu, của những bạn ban đầu, của bà mẹ đã mất.

Thầy Crô-xet-ti thân yêu ấy, bố nói giờ đây bố như đang thấy thầy ở trước mắt. Đã bốn mươi năm rồi từ ngày bố học với thầy. Thầy vóc người nhỏ nhắn, bấy giờ lưng cũng đã hơi còng, đôi mắt trong trẻo, không có râu, mặt nghiêm nghị những tác phong thấy rất lễ độ; thầy thương học trò như cha thương con và không bỏ qua một lỗi lầm nào của học trò mà không uốn nắn. Từ một người nông dân thầy đã thành ông giáo, nhờ cố gắng học tập và chịu đựng mọi sự . thiếu thốn. Bà nội còn rất mến thầy, ông nội xem thấy như bạn thân. Không rõ từ Tô-ri-nô này thấy chuyển về Côn-đô-vệ, rồi ở luôn đấy như thế nào cả?… Thầy sẽ không nhận ra bố, chắc thế, nhưng có hề gì, bố thì sẽ nhận ra thầy ngay!…Bốn mươi bốn năm rồi mà…Bốn mươi bốn năm, En-ri-cô à! Mai, ta đi thăm thầy.

Thế là hôm qua, lúc chín giờ sáng, chúng tôi ra ga Xu-xa. Tôi rất • muốn được Ga-rô-nê cùng đi, nhưng không thể được vì mẹ cậu đang ốm.

” Thật là một ngày xuân đẹp. Tàu chạy qua những cánh đồng xanh um những hàng giậu trồng hoa, tỏa hương thơm ngát. Bố có vẻ vui lòng lắm: chốc chốc lại quàng tay qua cổ tôi, và vừa ngắm cảnh thôn quê vừa chuyện trò với tôi, thân mật như với một người bạn. . .

“Tội nghiệp thầy giáo, – Bố nói, – sau ông nội, thầy là người thương yêu bố nhất, và đã đem cho bố nhiều điều tốt đẹp nhất. Bố không bao giờ quên được những lời khuyên bảo bổ ích của thầy, và cả những lời trách mắng rất nghiêm khắc của thầy làm cho bố khi về đến nhà rồi mà cổ vẫn còn nghẹn. Bố vẫn như thấy thầy đang bước vào lớp học, dựng cái gậy vào một góc tường, treo cái áo rét lên mắc áo, lúc nào cũng vẫn một dáng điệu ấy. Thầy bao giờ cũng bình tĩnh, rất có lương tâm, đầy thiện chí và rất chăm chỉ, như ngày nào thầy cũng mới lên lớp lần đầu tiên cả.

Bố vẫn nhớ những lúc thầy gọi bố: “Bốt-ti-ni này, Bột-ti-ni”! Hai ngón tay thầy cầm quản bút.

Xuống xe là chúng tôi tìm ngay đến nhà bà làm vườn. cũ, bà ta có một cửa hiệu nhỏ trong một ngõ cụt.

Chúng tôi thấy bà giữa đám con cái, bà tiếp chúng tôi rất niềm nở, cho chúng tôi biết tin chồng đi làm từ ba năm nay và cũng sắp về, tin đứa con gái vừa điếc vừa câm, đang học trường dạy những người câm điếc. Rồi bà bảo cho chúng tôi địa chỉ của thầy Crô-xet-ti mà cả làng này ai cũng biết.

Chúng tôi ra khỏi vùng này, và theo một con đường ắt qua các ngọn đồi, hai bên toàn những hàng giậu nở hoa.

Bố không nói gì nữa, bị thu hút vào những kỉ niệm xưa; thỉnh thoảng mỉm cười, hoặc lắc đầu buồn bã.

Bỗng bố đứng lại, nói: “Kìa, thầy kia rồi; cam đoan là đúng như thế”.

Một cụ già, vóc người nhỏ nhắn, râu bạc, đội cái mũ rộng vành, tay chống gậy, đang đi xuống ngọn đồi trước mặt chúng tôi. Dáng đi của cụ ngập ngừng, hai tay run run. .

“Đúng là thầy!”. Bố nhắc lại và rảo bước. Đến gần cụ già, chúng | tôi dừng lại; cụ cũng đứng lại và nhìn bố.

Nét mặt cụ vẫn tươi và đôi mắt sáng.

“Thưa cụ, có phải là con đang được hân hạnh hầu chuyện cụ giáo | Vin-sen-zô Crô-xet-ti đây không ạ?” Bố vừa nói vừa bỏ mũ ra.

Cụ già chào lại. “Chính tôi đây ạ” – cụ trả lời, giọng hơi run, nhưng nghe sang sảng.

. Thế thì, – bố nói tiếp và nắm lấy một bàn tay của cụ, – Xin thầy cho phép một học trò cũ của thầy được bắt tay thầy. Con từ Tô-ri-nô đến đây hầu thăm thầy.

– Thật hân hạnh cho tôi quá… Tôi không biết… Ông học với tôi hồi nào nhỉ? Xin lỗi, ông vui lòng cho biết tên.

Bố xưng tên và nói rành mạch ngày bố vào trường, lại nói thêm: “Có thể thấy không nhớ con, đó là đương nhiên, nhưng con thì nhận ra thầy ngay!”.

Cụ giáo cúi đầu suy nghĩ, mồm lẩm bẩm tên bố hai, ba lần, còn bố thì mỉm cười nhìn thấy, đôi mắt xúc động.

Bỗng cụ giáo nhớ ra, ngừng đầu lên, rồi nói chậm rãi: “An-bec-tô Bột-ti-ni, con kĩ sư Bôt-ti-ni, ở quảng trường Côn-xô-lô-ta?”.

– Đúng thế ạ! – Bố nói và đưa cả hai tay về phía cụ

– Thế thì, cho phép tôi, thưa ông… – và bước tới cụ ôm hôn bố: cái đầu. bạc của cụ chỉ mới ngang vai người học trò thôi và bố đưa môi hôn vào vầng trán tôn kính của cụ. “Giờ, xin mời quá bước lại nhà”, cụ giáo nói.

Và, không nói gì thêm, cụ quay trở về bằng con đường cũ. Mấy phút sau, chúng tôi đến một mảnh vườn con, cuối vườn là một ngôi nhà nhỏ có hai cửa ra vào. Một cái quét vôi trắng chung quanh. Cụ giáo mở cửa ấy, đưa chúng tôi vào một căn phòng, bốn bức tường quét vôi trắng. Ở một góc kê một tấm phản, có một cái chăn đắp chân kẻ ô xanh trắng; xa một chút là cái bàn giấy, trên mặt có cái giá sách nhỏ, chung quanh là bốn chiếc ghế tựa. Và một bản đồ đã cũ đóng đinh vào tường. Tất cả đồ đạc trong phòng chỉ có thế…

Chúng tôi ngồi xuống. Bố và cụ giáo nhìn nhau một lúc yên lặng.

Rồi cụ giáo nói to, mắt nhìn nền nhà lát gạch mà ánh mặt trời chiếu sáng nom như một bàn cờ: “Anh Bốt-ti-ni! Ô, tôi nhớ rõ lắm, bà thân sinh ra anh là một phụ nữ rất tốt! Năm thứ nhất anh ngồi ở chiếc băng trên cùng, phía bên trái cạnh cửa sổ. Nào anh xem, tôi vẫn còn nhớ đấy chứ! Giờ đây tôi vẫn như còn nhìn thấy cái đầu tóc xoăn xoăn của anh…”.

Cụ ngừng lại, suy nghĩ rồi nói tiếp:

“Hồi đó, anh là một cậu con trai rất linh hoạt, phải không nào? Đến năm thứ hai, anh bị bệnh bạch cầu và bà mẹ đau khổ của anh đem anh trở lại trường sau khi khỏi bệnh, gầy, trùm khăn kín mít. Từ bấy đến nay đã bốn mươi năm rồi, phải không nào? Anh còn nhớ đến người thầy giáo già của mình, thế là rất quý… Có những học trò cũ như anh đã đến thăm tôi những năm trước đây, có người đã là giáo sĩ, đại tá, tóm lại là ở những địa vị và nghề nghiệp rất khác nhau”.

Cụ Crô-xet-ti hỏi xem bố làm nghề gì; biết rõ cụ kêu lên: “Tôi rất vui lòng, rất vui lòng!”… Rồi cụ nói tiếp: “Ít lâu nay tôi không được gặp lại ai nữa, và tôi e rằng có thể anh là người đến thăm tôi cuối cùng đấy anh ạ!”.

Thầy nói gì vậy? Trông thầy vẫn còn mạnh và khỏe nữa, thầy không nên nói như vậy!

– Anh tưởng thế đấy thôi. Này anh xem, tay tôi run đây này, – vừa nói cụ giáo vừa chia hai tay ra – đó là một triệu chứng xấu… Tôi bị chứng này đã ba năm nay, hồi đó tôi còn đang dạy. Lúc đầu tôi không để ý đến, cho rằng sẽ khỏi thôi. Nhưng trái lại mỗi ngày càng run thêm, và cứ thế đến một ngày nọ tôi không thể viết được nữa. Ôi, thật là một vố đánh vào tim tôi, anh ạ, cái hôm mà tay tôi đánh rơi một giọt mực lên trang vở một học sinh của tôi!

Tôi còn cố kéo dài ít lâu nữa, thế rồi, sau sáu mươi năm dạy học, tôi đành phải bỏ nhà trường, bỏ học trò của tôi, bỏ công tác. Thật là cay đắng anh thấy không, cay đắng hết sức. Sau buổi lên lớp cuối cùng, toàn thể học sinh đã kéo theo tôi về nhà, làm cho tôi vui; dù sự bày tỏ cảm tình như vậy tôi vẫn buồn, tôi hiểu rằng cuộc đời đối với tôi như vậy là hết rồi…

Năm trước đây nhà tôi mất, và cả đứa con trai độc nhất của tôi cũng chết; tôi chỉ còn có hai đứa cháu gọi bằng bác mà thôi. Giờ tôi sống với số tiền hưu trí mấy trăm li-ra, tôi chẳng còn làm gì nữa cả, đối với tôi ngày cứ dài như vô tận; thú vui duy nhất của tôi là giở lại những quyển sổ các lớp cũ của tôi, những bộ sưu tập các họa báo, mấy quyển sách mà người ta biếu. – Đấy, cụ giáo vừa nói vừa chỉ cái giá sách, – trong đấy đựng tất cả những vật kỉ niệm của tôi, tất cả quá khứ của tôi! Ngoài ra tôi chẳng còn gì khác nữa trên đời này.

Rồi bỗng nhiên giọng vui vẻ, cụ nói tiếp: “Tôi sẽ dành cho anh một việc bất ngờ, anh Bột-ti-ni thân yêu ạ!”.

Cụ giáo đứng dậy, lại gần bàn làm việc, mở một ngăn kéo. Trong ngăn kéo có rất nhiều tập giấy nhỏ buộc dây lụa, trên mỗi tập có ghi một cái tên và ngày tháng. Cụ tìm một tí, mở ra một tập, lật lật mấy. tờ, rồi rút ra một tờ giấy đã ngả màu vàng, đưa cho bố. Đó là một bài tập của bố, ngày tháng để cách đây đã bốn mươi năm. Trên đầu trang giấy, thầy ghi:

An-bac-tô Bốt-ti-ni – Chính tả, ngày mồng 3 tháng tư năm 1838.

Bố nhận ra nét chữ trẻ con thô, to của mình, và vừa mỉm cười vừa đọc, nhưng bỗng mắt bố rưng rưng lệ; tôi liền đứng dậy và hỏi bố làm sao vậy.

Bố đưa tay quàng lấy người tôi, ôm chặt tôi vào một bên mình và nói:  “Con hãy nhìn trang giấy này. Con có thấy không, đây là những chữ sửa lại, do tay bà nội sửa cho bố đấy. Bao giờ bà cũng tô lại những chữ 1 và t cho bố, còn những dòng cuối bài thì là do tay bà hoàn toàn viết lấy. Bà cố tập viết cho giống nét chữ của bố, và những khi bố mệt hay buồn ngủ thì bà làm nốt bài cho bố mẹ của bố thật là một bà thánh!”. Rồi bố cúi xuống hôn vào trang giấy.

“Chính những vật này, – cụ giáo nói vừa nói vừa chỉ vào các tập giấy, – là những vật lưu niệm của tôi. Cứ mỗi năm tôi để lại một bài tập của mỗi học sinh của tôi; còn đấy cả, sắp xếp thứ tự và đều đánh số rõ ràng. Thỉnh thoảng tôi lại giở ra từng bài, đọc bài này một câu, bài kia một câu, thế là tôi nhớ lại hàng nghìn việc, và hình như tôi đang sống lại trong quá khứ của mình vậy. Biết bao nhiêu học trò, anh ạ: cứ nhắm mắt lại là tôi thấy những khuôn mặt nọ tiếp theo những khuôn mặt kia, lớp này đến lớp khác, hàng trăm và hàng trăm trẻ em. Ai biết được trong số đó đã có bao nhiêu người chết rồi! Tôi nhớ rõ hơn hết là những học trò tốt nhất và những học trò xấu nhất, những người đã làm tôi vui lòng và những người đã làm tôi đau lòng, vì giữa đám cừu non cũng có những con rắn. Nhưng giờ thì, anh hiểu không, cũng như là tôi đã ở thế giới bên kia rồi, nên tôi đều yêu mến tất cả họ như nhau hết”.

Cụ giáo ngồi xuống, và hai tay cụ nắm lấy bàn tay tôi.

– Thưa thầy, – Bố vừa hỏi vừa mỉm cười, – thế phần con thấy có còn nhớ một vài vụ nghịch ngợm nào không ạ?

– Anh ấy à? – cụ giáo cũng vừa trả lời vừa mỉm cười, – không có gì, | lúc này có lẽ tôi chưa nhớ ra, như thế không có nghĩa là anh không làm việc gì nghịch ngợm cả. Thực ra hồi đó trông anh nghiêm trang so với lứa tuổi của anh. Tôi còn nhớ tình thương yêu rất lớn của bà cụ đối với anh… Anh có biết rằng đến thăm tôi thế này là anh rất tốt và rất đáng yêu không? Làm sao mà anh có thể gác công việc bận rộn của mình để đến thăm một người thầy giáo tội nghiệp như thế này?

– Thế này đây, thầy ạ, – bố trả lời hoạt bát hẳn lên, – con không quên được cái ngày con bắt đầu đi học. Bà mẹ đáng thương của con dắt con đến. Đó là lần đầu tiên mà mẹ con phải xa con trong hai tiếng đồng hồ, mà mẹ con đưa con ra khỏi nhà mình và giao con cho những người xa lạ. Đối với một bà mẹ rất hiền từ ấy, ngày con bước vào trường học cũng như ngày con bước vào đời, nó bắt đầu một chuỗi dài những phen xa cách cần thiết và đau đớn; từ ngày ấy, xã hội đã rút khỏi tay bà đứa con trai để rồi không bao giờ trở lại nó trọn vẹn cho bà nữa. Bà gửi , gắm con cho thầy, thầy thân mến ạ, mà giọng bà run run, và khi ra về bà còn mỉm cười với con qua khe cửa mà mắt bà đẫm lệ, và thầy đã đưa tay làm một dấu hiệu để làm yên lòng bà, như muốn nói với bà: “Thưa bà, xin bà cứ tin cậy vào tôi”. Đấy, chính cái cử chỉ ấy, cái nhìn ấy làm cho con hiểu rằng thây chia sẻ nỗi bồi hồi của mẹ con, cái bàn tay ấy } của thầy đặt lên trái tim mình để làm cho người mẹ đáng thương được yên lòng; cái cử chỉ hiền từ, nhân hậu, thông cảm ấy bao giờ con cũng nhớ đến, như đã khắc sâu vĩnh viễn vào lòng con. Chính cái kỉ niệm ấy đã làm cho con từ Tô-ri-nô đến đây để được thưa với thầy, sau bốn mươi bốn năm xa cách: “Thưa thầy kính yêu, con xin cảm ơn thầy!”

Cụ giáo không nói gì, cụ xoay mãi đầu tôi với một bàn tay run run, rồi từ đầu cu xoa xuống trán, và từ trán xuống với tôi.

Trong lúc đó, bố nhìn bức tường trống trải, chiếc giường gỗ tồi tàn, một mẩu bánh mì đặt cạnh một chai dầu ăn ở khung cửa sổ, và bố có vẻ suy nghĩ: .

“Tội nghiệp thầy giáo sau sáu mươi năm làm việc, đó là tất cả phần thưởng của thầy!”

Cụ già phúc hậu lấy làm bằng lòng, và lại tiếp tục nói chuyện rất hoạt bát, về gia đình chúng tôi, về những thầy giáo khác thuở ấy, về những bạn học của bố. .

Bổ ngắt câu chuyện, ngỏ ý mời cụ giáo đi xuống ăn bữa trưa với chúng tôi.

“Xin cám ơn anh, nhưng tiếc là tôi không nhận lời được”, cụ giáo nói. Và xem chừng cụ lưỡng lự, bố cầm lấy hai tay cụ, và lại khẩn khoản mới. Cụ giáo nói:

– Làm sao mà tôi ăn được với hai bàn tay khổ sở run như cầy sấy thế này? Khác nào là hình phạt đối với tôi và đối với những người khác nữa.

– Chúng con sẽ giúp thầy, thầy ạ – bố trả lời. Thế là cụ nhận lời, gật đầu với một nụ cười.

“Đối với tôi, hôm nay quả là một ngày rất đẹp – cụ nói và đóng cửa lại, – một ngày rất đẹp, anh Bột-ti-ni thân mến ạ, một ngày mà còn sống là tôi còn nhớ, chắc chắn như vậy anh ạ”.

Bố đưa tay đỡ cụ giáo cùng đi, còn tôi thì nắm lấy bàn tay cụ, và chúng tôi theo con đường nhỏ đi xuống dốc. Chúng tôi gặp hai cô gái bé đi chân đất đang chăn bò và một cậu bé con trai vác một bó rơm trên vai. Cụ giáo cho biết rằng các cô cậu ấy là học trò lớp hai, buổi sáng họ ra đồng chăn bò và buổi chiều đi giày vào để đến lớp học.

Gần đứng bóng thì chúng tôi đến quán hàng, chúng tôi ngồi vào một cái bàn lớn, cụ giáo ngồi giữa hai bố con, và chúng tôi bắt đầu ăn trưa.

Quán hàng vắng lặng. Ông cụ tội nghiệp lại rất vui, và gần như cụ không thể nào ăn được. Bố cắt thịt, cắt bánh, lấy muối vào đĩa cho cụ. Uống thì cụ phải cầm cốc cả hai tay, thế mà chiếc cốc cứ vẫn vập. vập vào răng cụ.

Cụ nói chuyện nhiều và say sưa về những quyển sách tập đọc của cụ hồi thơ ấu, đến những lời khen ngợi của các người trên của cụ, tất cả những điều ấy với một nụ cười gần như trẻ trung.

Còn bố thì nhìn cụ với cái vẻ mặt mà thỉnh thoảng ở nhà tôi vẫn bắt gặp, những lúc bố nhìn tôi và mỉm cười vì một ý kín đáo nào đó của mình.

Mãi nói chuyện, cụ giáo đánh đổ rượu vào áo gi-lê, bố vội đứng lên lấy khăn của mình lau cho cụ, nhưng cụ thì ngăn lại và nói: “Xin đừng, xin đừng, tôi không dám…” và cụ lại cười, vừa cười vừa nói những tiếng Latinh.

Sau cùng, cụ nâng cốc trịnh trọng, nói: “Xin chúc sức khỏe của anh! Và của các cháu! Để tưởng nhớ bà mẹ hiền của anh!”

– Kính chúc sức khỏe của thầy! – Bố vừa đáp lại vừa bắt tay cụ..

Từ cuối gian phòng, chủ quán và những người giúp việc nhìn chúng tôi vẻ rất hài lòng, và lấy làm tự hào thấy cụ giáo vùng mình được khoản đãi như thế.

Hai giờ chúng tôi ra về, cụ giáo ngỏ ý muốn tiến chúng tôi ra ga. | Bố lại đưa tay cho cụ khoác, còn tôi lại nắm lấy bàn tay cụ và cầm | gây cho cụ. Những người đi đường đều dừng lại nhìn chúng tôi, vì mọi . người đều biết cụ Crô-xet-ti và chào cụ.

Đến một quãng đường, chúng tôi nghe từ một cửa sổ mở rộng. Những tiếng trẻ em đang cùng đọc bài tập đọc. Cụ già đứng lại và mắt cụ đượm buồn, cụ nói:

“Đấy, việc này làm cho tôi đau lòng, anh Bột-ti-ni thân mến ạ; nghe tiếng trẻ con học ở nhà trường mà không được ở đấy nữa, nghĩ rằng chúng đã có một thầy giáo khác… Sáu mươi năm rồi, tai tôi đã nghe bản hòa tấu những giọng trẻ em ấy và trái tim tôi đã quen thuộc quá rồi… Giờ thì tôi chẳng còn gia đình, chẳng còn đứa trẻ nào nữa!

Xin lỗi thầy, – bố nói, – thầy vẫn còn nhiều đứa con ở khắp nơi trên thế giới. Họ vẫn nhớ thầy, cũng như con suốt đời vẫn nhớ thầy vậy.

– Không, không, – cụ nói một cách buồn rầu, – tôi không còn có

trường học nữa, tôi không còn có trẻ con nữa, và không có trẻ con thì tôi cũng không sống được bao lâu nữa.

– Xin thầy đừng nói vậy,- bố đáp lại, – thầy đã làm được biết bao nhiêu việc có ích, thầy đã cống hiến cả đời mình một cách cao quý biết bao!

Cụ giáo nghiêng cái đầu bạc vào vai bố một lúc rồi siết chặt tay tôi. Chúng tôi vào sân ga, tàu sắp chạy.

“Xin tạm biệt thầy”, bố vừa nói vừa ôm hôn cụ Crô-xet-ti vào hai má.

“Tạm biệt và xin cảm ơn!”, cụ giáo trả lời và nắm bàn tay của bố với cả hai bàn tay run rẩy của mình và ghi lên chỗ trái tim của mình.

Khi tôi ôm hôn cụ, tôi thấy mắt cụ đẫm nước. Bố đẩy tôi lên toa xe, và đến lượt mình bước lên thì bố nhanh tay lấy ngay cái gậy thô kệch của cụ giáo đang chống, đổi bằng cái gậy rất đẹp của mình tay câm nạm bạc, có khắc chữ cái họ tên mình.

“Xin thầy giữ cái này làm vật lưu niệm của con”, bố nói.

Cụ giáo cố tìm cách trả lại cây gây cho bố và lấy lại gậy của mình, nhưng bố bước nhanh vào trong toa và đóng cửa lại. .

– Xin tạm biệt thầy giáo yêu quý của con!

– Tạm biệt con!… Cụ giáo đáp lại, trong lúc tàu chuyển bánh, – con được phước lành, vì niềm vui mà con đã đem đến cho một ông già tội nghiệp.

“Xin sẽ gặp lại”, bố thét to giọng xúc động.

Nhưng cụ giáo cúi đầu xuống, dường như muốn nói: “Chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa”.

“Có chứ, có chứ, – bố nhắc lại, – chúng ta sẽ gặp lại nhau!”.

Thay cho câu trả lời, cụ giơ bàn tay run rẩy lên. Rồi bóng cụ khuất dần.

(A-mi-xi – Những tấm lòng cao cả)

Nguồn website giaibai5s.com

Học tốt Ngữ Văn 9 Tập 1 – Bài 13: Tập làm văn: Viết bài tập làm văn số 3 – văn tự sự
Đánh giá bài viết