Đáp án bài tập trắc nghiệm

Bài tham khảo

  PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐÂY MÙA THU TỚI CỦA XUÂN DIỆU

   Đây mùa thu tới là bài thơ viết về đề tài quen thuộc: mùa thu. Bài thơ vẫn dùng nhiều thì liệu truyền thống nhưng tác giả đã gửi vào đó những cảm xúc mới, đồng thời có nhiều cách tân táo bạo trong xử lí thi liệu, trong diễn đạt… Chính vì vậy, bài thơ vẫn được xem là một thành công xuất sắc, tiêu biểu cho hồn thơ của Xuân Diệu.

   Kết cấu không gian trong bài thơ rất đặc sắc: khổ 1 là hồ thu, khổ 2 là vườn thu, khổ 3 và 4 là đất trời thu. Kết cấu đó xoáy vào dụng ý nghệ thuật của Xuân Diệu: xây dựng một hình tượng thu – mĩ nhân, mùa thu hóa thành hình tượng một thục nữ mĩ miều, tha thướt và u buồn; đẹp một vẻ đẹp lãng mạn, cao sang. Nàng thu của Xuân Diệu đang nhón gót trên đường biên của phút giao mùa, từ hạ sang thu.

   Khổ thơ đầu là cảnh hồ thu. Bài thơ mở đầu bằng hồ, hay đúng hơn là bằng hình ảnh liễu bên hồ:

               Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

               Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.

   Thật lạ, liễu từng thướt tha trong Truyện Kiều:

               Dưới cầu nước chảy trong veo

   Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. Liễu của Xuân Diệu gay gắt hơn: chịu tang – một cảm nhận bất ngờ, đẫm màu tang tóc. Bất ngờ nhưng vẫn đúng. Lá liễu được so sánh thật tầng lớp, biến hóa: vừa đổ xuống song song như tóc giai nhân, vừa tuôn chảy như dòng lệ ướt. Để nhấn mạnh nỗi tang tóc, Xuân Diệu còn đưa ra từ láy âm đìu hiu, khiến câu thơ càng bị ru thêm vào một âm điệu thê lương, chua xót. 

   Với hai câu tiếp theo, nàng liễu trở thành linh hồn của mùa thu:

               Đây mùa thu tới – mùa thu tới

               Với áo mơ phai dệt lá vàng.

   Điệp ngữ Đây mùa thu tới là tiếng reo hay tiếng thở dài? Đó là cả hai: trong tiếng thở dài có tiếng reo thầm, vì mùa thu đâu chỉ mang tới cái buồn lạnh, mà còn chứa đựng cả cái xôn xao của sự sống. Đến câu cuối, mùa thu hiện hình cụ thể hơn: Với áo mơ phai dệt lá vàng. Hình ảnh thật diễm ảo: mùa thu nhuộm vàng cả đất trời, hay đất trời dệt áo vàng khoác lên nàng thu? Nàng thu trở nên đẹp lộng lẫy, sang trọng. Nhưng tinh ý, ta sẽ nhận ra đó là vẻ đẹp sắp tàn, khiến tiếng reo trong câu thơ ngầm chứa sự thảng thốt, lo âu. Cái đẹp xao xác buồn này sẽ định hướng cảm xúc toàn bài, cũng là một khuynh hướng thẩm mĩ quen thuộc của thơ mới.

   Với khổ thơ thứ hai, không gian thu dường như bị thắt lại nơi vườn thu:

               Hơn một loài hoa đã rụng cành 

               Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh

               Những luồng run rẩy rung rinh lá

               Đôi nhanh khô gãy xương mỏng manh.

   Chỉ một không gian vườn bé hẹp. Xuân Diệu đã diễn đạt một điều ghê gớm: mùa thu lạnh buốt đang bòn rút sự sống của cỏ cây hoa lá, tức là của tạo hóa. Ở câu hai có một từ mới: rũa, đồng nghĩa với từ lấn (màu đỏ lấn màu xanh), nhưng nếu đổi sang từ lần thì giá trị câu thơ sẽ giảm đi rất nhiều. Lấn gợi lên một hiện tượng thiên nhiên, thiên về miêu tả thực tế. Rũa thiên về biểu hiện nội tâm, nên mạnh hơn, nhói buốt hơn, tạo một cảm nhận bỏng rát, đau đớn trước sự tàn phá nghiệt ngã của thiên nhiên. Nguyễn Gia Thiều cũng từng có một câu thơ mang ý dữ dội như thế: Sương như búa bổ màu gốc liễu (Cung oán ngâm khúc).

   Song đặc sắc nhất là hình ảnh gió và cành cây. Ngọn gió thổi ra từ cổ thi rất buồn: Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu (Thu Định – Nguyễn Khuyến), nhưng là cái buồn trong tiếng thở dài yếu ớt. Gió Xuân Diệu run bần bật bởi bốn phụ âm r (run rẩy, rung rinh) làm câu thơ buốt đến tê tái. Vũ Quần Phương quả là tinh tế khi cho rằng hiệu quả câu thơ không chỉ tả gió mà còn gọi rét. Hình ảnh cành cây trong ca dao cũng rất đắm say: Gió đưa cành trúc la đà, Nguyễn Khuyến đã gọt nhỏ cái cành trong ca dao thành cái cần trong Thu vịnh: Cần trúc lơ phơ gió lắt hiu. Xuân Diệu lại đẩy tiếp cận của Nguyễn Khuyến thành nhảnh và xương đầy chất tạo hình, gây ấn tượng thị giác rất mạnh: chạm khắc vào trời thu hình ảnh cây cối quắt queo như dẻ xương gầy. Mùa thu héo quắt thêm trong hồn thơ Xuân Diệu.

   Nếu khổ thơ thứ nhất buồn, khổ thứ hai buốt, thì khổ thơ thứ ba kết hợp hai cảm giác ấy và đẩy tới một trạng thái u uất hơn, trùm lên cả đất trời rộng lớn. Điều độc đáo là Xuân Diệu xen kề đất và trời thành những cặp đôi song song đi suốt hai khổ thơ cuối.

   Trước hết là bầu trời, có trăng mây và chấp chới cánh chim. Câu thơ tả trăng có một âm điệu rất hay: Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ. Câu . chữ và hình ảnh ngồ ngộ, ngơ ngác thế nào. Sao lại thỉnh thoảng và tự ngẩn ngờ? Hoài Thanh bắt rất tinh đặc điểm này của Xuân Diệu: Ngay lời văn của Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi. Xuân Diệu viết văn tựa như trẻ con học nói hay người ngoại quốc mới võ sẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ. Nhưng cái dáng bỡ ngỡ ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người. Quả thật, đọc kĩ mới thấy câu thơ Xuân Diệu rất tinh và rất nghịch, vì nó đột ngột bắt quả tang một trạng thái mơ màng, ngẩn ngơ của nàng trăng. Có điều, Xuân Diệu bắt quả tang thiên nhiên hay chính cõi lòng mình?

   Từ cánh chim trốn rét, Xuân Diệu chợt hốt hoảng khi nhận ra điều đáng sợ đang xảy ra giữa trời đất: Khí trời u uất hận chia li. Nỗi đau li tán dằn xuống trong thanh trắc của chữ hận như tiếng nấc trước một vũ trụ dường như trống rỗng.

   Trời đã buồn, mặt đất còn buồn hơn. Trong không gian vắng người, vắng đò, chim di tản, có một câu thơ thật hoang lạnh:

                    Đã nghe rét mướt luôn trong gió

   Từ luôn thật tinh điệu. Đúng là cái rét đang tàng hình trong tiết chớm thu, mà chỉ người nghệ sĩ – vốn là nhà bác học của các giác quan mới phát hiện ra được. Nhưng hình ảnh con người đột ngột xuất hiện trong hai câu kết mới là cái nấc cao nhất của cảm giác thu Xuân Diệu:

                      Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói 

                      Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?

   Hình tượng nàng thu bộc lộ trọn vẹn trong bóng dáng thiếu nữ. Tất cả cảm giác thu quy tụ vào đây. Thơ Xuân Diệu dẫu có nói trời mây non nước gì cuối cùng cũng kết lại nơi con người, nơi tuổi trẻ, nơi những thiếu nữ vừa chạm bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, vừa ngơ ngác, vừa khao khát yêu đương, khao khát giao cảm với cuộc đời rộng lớn. Hai câu thơ man mác trong trạng thái mơ hồ không xác định, rất hợp với tâm hồn bâng khuâng của lứa tuổi này, con số không xác định (ít nhiều), nỗi buồn thầm lặng không duyên cớ (buồn không nói).

   Bức tranh thu của Xuân Diệu là sự thám hiểm phút chuyển mình cũ mà mới mẻ của thời gian từ hè sang thu, từ nóng sang lạnh bằng những giác quan tinh tế, tạo những rung động thẩm mĩ thấm thía. Đó là một cống hiến quý báu của thi sĩ trong việc khám phá thiên nhiên bằng nghệ thuật thơ ca. Linh hồn bức tranh là một tình thu buồn vắng cô đơn. Điều này do hai lẽ. Thứ nhất, do trạng thái riêng của mùa thu: không ồn ào như hạ, tê tái như đông, tươi tắn như xuân mà êm lắng u sầu một cách mơ màng, dễ gợi hồn thơ hướng nội. Thứ hai, nỗi buồn thu gặp nỗi sầu tuổi trẻ của thời vong quốc, ngơ ngác trước ngưỡng cửa vào đời, càng khát khao nhập vào đời càng bị đẩy vào cô đơn. Cái lạnh thu là cái lạnh của linh hồn cô đơn đang thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau (Xuân Diệu). Giá trị nhân bản của bài thơ là ở nỗi buồn trong sáng ấy.

HỒN THƠ XUÂN DIỆU

   Tôi đã trót yêu cái hồn thơ Xuân Diệu, một hồn thơ luôn rộng mở, chẳng bao giờ để lòng mình khép kín, một hồn thơ “tha thiết, rạo rực, băn kho (Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam). Xuân Diệu tha thiết, rạo rực bởi niềm say mê yêu đời, yêu cuộc sống, thèm sống đến mãnh liệt và thèm yêu đến điên cuồng với niềm khát khao được giao cảm với đời. Nhà thơ băn khoăn bởi cái buồn bàng bạc, bâng khuâng, miên man không dứt bởi cuộc đời chẳng đáp ứng được cách sống vội vàng của con người nhà thơ. Với ba tính từ ấy, Hoài Thanh đã xây dựng cho Xuân Diệu một bậc thang cao nhất, đưa chàng thi sĩ “say men sống” lên đứng cao hơn mọi người – “Xuân Diệu, nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Bởi nguyên nhân Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất, là đại biểu đầy đủ nhất cho phong trào Thơ mới, bởi cái cá tính rất riêng khó có thể trùng lặp với ai, một phong cách thơ rất Xuân Diệu, mới cả về nội dung và hình thức. “Với những lần thơ ít lời mà nhiều ý, súc tích nhưng đọng lại bao nhiêu tinh hoa, Xuân Diệu là một tay thợ biết làm cho ta ngạc nhiên vì nghệ thuật dẻo dai và cần mẫn” (Thế Lữ). Xuân Diệu tuy xuất hiện trên thị đàn thơ mới muộn hơn so với Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông… nhưng thơ Xuân Diệu trong thời kì này đã tạo được một tiếng vang lớn có sức lay động với nhận thức và tình cảm của người đọc cũng như người sáng tác lúc bấy giờ… .

   “Nhà thi sĩ ấy là một chàng trai trẻ hiền hậu và say mê, tóc như mây nướng trên đài trán thơ ngây, mắt như lưu luyến mọi người và miệng cười mở rộng như một tấm lòng sẵn sàng ân ái, chàng đi trên đường thơ, hải những bông hoa gặp dưới bước chân mình, những hương sắc nẩy ra bởi ánh sáng của lòng chàng…” (Thế Lữ). Vâng! Đúng thế. Một nhà thơ nhận xét một nhà thơ, không phải chuyện “mèo khen mèo dài đuôi”, mà mèo muốn nói cái đuôi kia sẽ dài hơn kia. “Như một tấm lòng sẵn sàng ân ái”, Xuân Diệu dang tay chào đón nhựa sống rạt rào của cuộc đời. Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian, ông lại không trách mà còn quyến luyến cõi đời, và lời nguyện ước của ông có bao nhiêu là sức mạnh:

                 Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn

                 Làm dây quấn quýt cả mình xuân

                 Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần

                 Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất.

   Một ước muốn quá ngông cuồng, lãng mạn và dường như không thể thực hiện được! Nhưng với ai, chứ Xuân Diệu có thể thực hiện được, bởi nhà thơ:

                 Sống toàn tâm, toàn bích, sống toàn hồn

                 Bằng say mê và thức chọn giác quan.

   Nhà thơ dùng nhiều từ khiến lòng ta bỡ ngỡ, nhà thơ muốn ôm, cánh tay muốn làm rắn, muốn hóa thân thành “dây quấn quýt cả mình xuân” của cuộc sống. Dẫu biết mùa xuân là bất tận, Xuân Diệu biết quy luật của thời gian, biết rằng xuân qua đi rồi xuân sẽ trở lại, nhưng “tuổi trẻ chẳng bao giờ thắm lại” nên nhà thơ bâng khuâng tiếc cả đất trời, nhà thơ muốn ôm mãi mùa xuân, muốn cho mình trẻ mãi:

                 Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần .

                 Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất.

   Nếu Thế Lữ còn nuôi giấc mộng lên tiên thì Xuân Diệu “đốt cảnh bồng lai và cua ai nấy về hạ giới” (Hoài Thanh). Chàng thi sĩ trẻ yêu đời nhận ra rằng, không có gì quý hơn cuộc sống thực tại này, còn gì bằng ở chốn dương trần, vườn trần xinh tươi, đất nở muôn ngàn hoa tươi thắm, thì tìm làm chi tận chốn cung tiên, mơ mộng “muốn làm thằng cuội” (Tản Đà) làm chi mà thủ thỉ bên chị Hằng để trốn tránh chốn trần thế. Nơi mặt đất này, màu nắng hương say đều làm cho người ta ngây ngất, và Xuân Diệu đã:

                …muốn tắt nắng đi

                Cho màu đừng nhạt mất

                …muốn buộc gió lại

                Cho hương đừng bay đi.

thì cũng là một ý muốn ngông cuồng, lãng mạn.

   Và ở đây, cái đẹp của vườn trần mà chỉ một mình Xuân Diệu mới phát hiện ra được:

                 Của ong bướm này đây tuần tháng một

                 Này đây hoa của đồng nội xanh rì

                 Này đây lá của cành tơ phơ phất

                 Của yến anh này đây khúc tình si

                 Và này đây ánh sáng chớp hàng mi…

   “Này đây”, sự lặp đi lặp lại một đại từ phiếm chỉ, để liệt kê, Xuân Diệu đã đưa ra cho người ta thấy, với một tâm hồn say sưa yêu sống như thế không thể hững hờ với thiên nhiên tươi đẹp, thì cớ gì mà con người còn đi tìm ở tận phương nào… 

   Cuộc sống đẹp và huyền diệu như thế nên nhà thơ không những đón nhận nó mà còn muốn hòa tan nó theo hơi thở của mình:

                 Ta muốn ôm

                 Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

                 Ta muốn tiết máy đưa và gió lượng

                 Ta muốn say cánh bướm của tình yêu

                 Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

                 Và non nước và cây và cỏ rạng

                 Cho chếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng

                 Cho no nê thanh sắc của thời tươi

                 Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi! 

   Xuân Diệu thật thiết tha với cuộc sống. Tuổi xuân chàng thi sĩ chỉ biết làm sao cho thỏa dạ yêu đời. Cuộc sống vẫn còn đó chứ đâu? Tại sao nhà thơ lại cứ mãi suy nghĩ viển vông rồi lại hành động ngây ngô. Không! Nhà thơ của chúng ta không ngây ngô, nhà thơ chỉ thôi thúc mọi người hãy sống sao cho xứng đáng với tuổi trẻ. Vì thế, nhà thơ “muốn ôm”, “ôm sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, nhà thơ “muốn tiết mây đưa và gió lượn”, “muốn say cánh bướm của tình yêu”, “muốn thâu trong một cái hồn nhiều”… một loạt động từ “muốn” như khẳng định hành động, làm cho chênh choáng, cho đã đầy, cho no nê thanh sắc thời tươi và cuối cùng là không thể dồn nén cảm xúc: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Nhà thơ muốn cắn, muốn bấu vào da thịt của mình xuân, để có thể tận hưởng tất cả dư vị ngọt ngào của cuộc sống xuân tươi đang mơn mởn…

   Lòng yêu cuộc sống thiết tha ấy, đặc biệt là khát vọng sống có ích cho đời, có thể nói là một trong những yếu tố tạo nên sức sống, sức hấp dẫn mạnh mẽ của thơ Xuân Diệu, góp phần tạo cho nhà thơ có một chỗ đứng xứng đáng trên thi đàn.

   Rồi lúc nào đó, tâm hồn thiết tha yêu sống ấy lại rạo rực một tình yêu chân thành. Một buổi chiều thơ ấy, dưới cặp mắt choáng hơi men sống, cảnh vật cũng trở nên kì diệu:

                 Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu

                 Lả lả cành hoang nắng trở chiều

                 Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn

                 Lần đầu rung động nỗi thương yêu.

   Đó là tình yêu của buổi đầu e ấp, thật trong sáng và đáng yêu làm sao! Rồi tình yêu say đắm, nhà thơ muốn tận hưởng tình yêu sôi nổi, đam mê, cuồng nhiệt như muốn trở thành điên dại:

                 Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ

                 Phải nói yêu trăm bận mấy nghìn lần

                 Phải mặn nồng cho mãi mãi đêm xuân 

                 Đem ong bướm thả trong vườn tình ái

                 Em phải nói phải nói là phải nói

                 Bằng lời riêng nơi cuối mắt đầu mày

                 Bằng nét vui, bằng vẻ thẹn, chiều say

                 Bằng đầu ngả, bằng miệng cười, tay riết

                 Bằng im lặng, bằng chi anh có biết!…

                 Không phải là chuyện có yêu hay không.

   Cái mà Xuân Diệu muốn nói là yêu như thế nào? Nhà thơ đòi hỏi một tình yêu mãnh liệt, say đắm, một tình yêu có nồng độ cao – một tình yêu mặn nồng, vô biên và tuyệt bích. Và một khi tình yêu dang dở, chỉ có Xuân Diệu nhận rõ và tuyệt vọng hơn ai:

        Yêu là chết trong lòng một ít

        Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu

        Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu

       

        Họ lạc lối giữa u sầu mù mịt 

        Những người si theo dõi dấu chân yêu

        Và cảnh đời là sa mạc cô liêu Và ái tình là sợi dây quấn quýt

        Yêu là chết trong lòng một ít.

   Chỉ có những người si mới theo dõi dấu chân yêu, khi tuyệt vọng rồi mới rõ ràng thấy lòng mình đã chết… 

   Nhưng Xuân Diệu chẳng bao giờ chán nản, “khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết… không cần phải như là con hổ ngự trị trên rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sống, sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đây đủ hơn cả trong những rung động tinh vi, sau khi đọc lại nhà thơ có tâm hồn phức tạp này, sau khi đã tìm hiểu Xuân Diệu hoài, tôi thấy đây mới chính thật là Xuân Diệu” (Hoài Thanh).

   Một nhà thơ có tâm hồn tha thiết với cuộc sống như thế, đôi khi cũng có đơn trong cuộc sống đời thường. Và cứ mỗi độ thu về, tâm hồn nhà thơ lại thêm một nỗi cô đơn, đấy là nỗi “băn khoăn” của thi sĩ. Và cái băn khoăn ấy là biểu hiện rõ nét và chân thành nhất của lòng yêu đời rạo rực. Đó là hai mặt của một hồn thơ Xuân Diệu, và Xuân Diệu chẳng phải đã bộc lộ tâm sự của mình trong “Thơ duyên” đó sao?

                 Mây biếc về đâu bay gấp gấp

                 Con cò trên ruộng cánh phân vân.

   Đứng giữa cuộc đời đang đổi thay bởi cái cảnh nước mất nhà tan, làm sao tâm hồn ấy có thể tha thiết rạo rực mãi? Và tâm trạng của Xuân Diệu cũng có khác gì tâm trạng của những nhà thơ bấy giờ, hay nói đúng hơn đó là tâm trạng của một lớp thanh niên trí thức buổi giao thời mới cũ đổi thay. Họ chỉ biết gửi tâm sự thầm kín của mình vào thiên nhiên, đất trời, vũ trụ bao la. Chẳng thế mà Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã nhận xét: “Ta thoát lên tiến cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên; ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ”.

   Vì thế nhà thơ Xuân Diệu vẫn còn “bơ vơ”, lắng nghe bước đi của thời gian từ hạ sang thu, lòng nhà thơ dâng lên một nỗi buồn tê tái khó tả – nỗi buồn vỡ tung ra thành tiếng khóc và đọng lại thành hàng ngàn giọt lệ:

              Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

              Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.

   Có lẽ không phải là rặng liễu của thiên nhiên buồn mà dường như đó là “rặng liễu tâm hồn” của tác giả. Bởi tác giả cũng có nỗi niềm “buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn”. Xuân Diệu đã dẫn ta vào thế giới của buồn chán, cô đơn và tuyệt vọng: .

              Tôi là con nai giữa chiều giăng lưới

              Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối.

   Nhà thơ đã thực sự cô đơn, bơ vơ như con nai bị “chiều giăng lưới”, biết đi đâu về đâu? Đứng sầu từ chiều cho đến khi bóng tối chìm ngập cả không gian. Khi thời gian trôi qua, Xuân Diệu mới ngỡ ngàng, ngơ ngẩn nhìn hạ chuyển mùa mà lòng nghe tê tái:

              Hơn một loài hoa đã rụng cành

              Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh

              Những luồng run rẩy rung rinh lá

              Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.

   Có ai quan sát được như nhà thơ? Chỉ có tâm hồn rạt rào yêu sống, quan tâm đến sự sống mới có thể vượt lên được hoàn cảnh thê lương để tâm hồn luôn sống đẹp mà mới viết lên được những câu thơ đầy hình ảnh như thế, và mới có cách nói rất mới ấy: “hơn một” – cách dùng từ rất Tây, rất mới, không chỉ một loài hoa, mà khi thu đến rồi đi, nhiều loài hoa đã rời cành. Sự quan sát càng tinh tế hơn ở câu sau: “Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”, màu đỏ đã lấn át dần màu xanh, đấy là giai đoạn đầu thu, có hơi lạnh tràn về:

              Những luồng run rẩy rung rinh lá

              Đội nhánh khô gầy xương mỏng manh.

   Chỉ bằng những từ láy âm, nhà thơ đã gợi trong ta cái dáng yếu ớt, chao đảo, cái rùng mình thắm lạnh và cả nỗi sợ hãi của những chiếc lá sắp phải lìa cành trước những cơn gió cuối thu. “Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”, bằng hình ảnh so sánh, nhân hóa đã gợi lên cái dáng lẻ loi, cô đơn giữa đất trời, từng nhánh khô gầy khẳng khiu như chạm khắc lên bầu trời buồn cô đơn dưới con mắt buồn của thi nhân. Và nhà thơ:

              Đã nghe rét mướt luồn trong gió

              Đã vắng người sang những chuyến đò…

   Cảnh thu đã tàn rồi, mùa thu đã dần nhường bước cho tiết trời mùa đông len qua, càng buồn càng cô đơn hơn nữa! Mùa đông đã đến trong từng ngọn gió rét mướt làm tê lạnh lòng người!

   Xuân Diệu say đắm đấy, thiết tha sống đấy nhưng lại rất băn khoăn. Nhà thơ đã náo nức đón chào mùa thu: “Đây mùa thu tới – mùa thu tới”. Nhưng rồi cảm giác vui mừng ấy cũng tan biến đi khi thời gian bằng bước đếm vội vàng làm lòng người tê tái, khi còn lại đây chỉ là mùa đông bằng giá thê lương, với những cuộc chia li, với con người như biếng nói trước cảnh vật:

              Mây cẩn từng không chim bay đi

              Khí trời u uất hận chia li 

              Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

              Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.

   Cả một không gian bao la giờ đã thấm nỗi buồn của lòng người và hiện lên trên gương mặt của những cô thiếu nữ. Đó là tâm trạng của những lớp người chưa xác định được hướng đi và cũng không giải thích nổi. Nó chỉ phảng phất nỗi lòng trên cảnh vật, hiện hình lên gương mặt những cô thiếu nữ và đọng lại trên sắc thu tê tái, thấm sâu nỗi niềm băn khoăn của Xuân Diệu. Và trong nỗi niềm băn khoăn đó, nhà thơ đã sử dụng tài tình những từ ngữ rất tinh vi bộc lộ được nỗi đau buồn của tâm trạng đang bơ vơ giữa cuộc đời.

   Và trong niềm băn khoăn ấy, lời thơ ấy vẫn sống mãi, vẫn thiết tha và rạo rực, có buồn chăng cũng chỉ vì nhà thơ của chúng ta mang tâm trạng cô đơn và bất lực trước cuộc đời.

   Xuân Diệu là thế, lời thơ có những lúc rất Tây, nhưng vẫn mang được cái cốt cách rất đáng trân trọng, “cái dáng yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ lòng ta” (Hoài Thanh). Ta đến với Xuân Diệu, ngoài những vần thơ làm người ta rung động còn có cái gì đó ở Xuân Diệu mà ta rất đỗi nâng niu. Đó là tâm hồn thơ kết tinh của hai nền văn học Đông và Tây đã đưa Xuân Diệu bước lên đỉnh cao nhất – “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới” (Hoài Thanh), bởi Xuân Diệu vẫn còn giữ mình với phong cách của thơ ca dân tộc, đã làm lòng người Việt Nam yêu mến. Đến với thơ Xuân Diệu ta mới cảm nhận được hết tâm hồn của chàng thi sĩ say men đời cuồng nhiệt này, giúp ta hiểu thêm về cuộc đời này với muôn vẻ đẹp thiên nhiên mà hầu như ta không để ý tới. Với một chiếc lá rơi, một luồng gió lạnh, một chút nắng vàng trải rộng, một cử chỉ bâng khuâng của con người, chỉ có Xuân Diệu mới để lòng quan tâm. Đó là phong cách của nhà thơ, nhà thơ đã từng sống, sống hết mình cho cuộc đời và cho thơ văn của mình.

Nguồn website giaibai5s.com

Học tốt Ngữ Văn 11-Bài 35. Trả bài kiểm tra tổng hợp cuối năm.
Đánh giá bài viết