I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

Kĩ năng đọc là sự thể hiện tổ hợp những thao tác tư duy được xác lập thành thói quen ứng xử đọc. Các thao tác tư duy đó là:

1. Lựa chọn có 1 thức đề tài hoặc những vấn đề cần đọc cho bạn thân, biết vận dụng thành thạo các cách đọc khác nhau đối với từng loại tài liệu đọc (tài liệu nghiên cứu, tài liệu phổ thông, tài liệu giải trí…).

2. Biết định hướng nguồn tài liệu cần thiết cho bản thân, trước hết trong các thư mục và mục lục thư viện, các nguồn tra cứu như: bách khoa thư, từ điển giai nghia, các loại so tai, cá lang… và biết định hướng nguồn tài liệu cần thiết cho bản thân trong môi trường số (trong các cơ sở dữ liệu, trên internet).

3. Thể hiện được tính hệ thống, tính liên tục trong quá trình lựa chọn tài liệu đọc (đọc từ trình độ thấp lên trình độ cao, từ các vấn đề đơn giản tới phức tạp).

4. Biết cách tiếp nhận tối đa và sâu sắc nội dung tài liệu đọc, kể cả vệ sinh khi đọc tài liệu như cách ngồi, khoảng cách giữa mắt và tài liệu đọc, .. .

5. Biết vận dụng các biện pháp kĩ thuật để củng cố và đào sâu những nội dung đã đọc như ghi chép, lập hộp phiếu thư mục, soạn tóm tắt, viết chú giải, trao đổi với bạn bè, đồng nghiệp…

6. Mục đích cuối cùng của kĩ năng đọc là đọc có hiệu quả cao nhất, nắm chắc nội dung cốt lõi và biết vận dụng những điều đã đọc được vào cuộc sống của chính người đọc. Ngày nay người ta đặc biệt lưu tâm tới yếu tố thứ 6: biết vận dụng những nội dung đã đọc vào cuộc sống của mỗi người đọc để có thể cải thiện được chính cuộc sống của họ. Không phải vô cớ mà hàng năm UNESCO trao giải thưởng xóa mù chữ cho những cá nhân, tập thể không chỉ biết đọc biết viết đơn thuần, mà phải biết vận dụng những điều đọc được vào cuộc sống của chính họ, cải thiện được cuộc sống nghèo khổ của người mù chữ.

(Nguyễn Hữu Viêm, Văn hoá đọc và phát triển văn hoá đọc ở Việt Nam, dẫn theo http://www.nlv.gov. vn)

 Câu 1 Nội dung chính của đoạn trích trên là gì?

 Câu 2 Theo đoạn trích, thế nào là “kĩ năng đọc”? 

Câu 3 Theo anh chị, vì sao người viết lại đưa vào đoạn trích hoạt động của

UNESCO: “hằng năm UNESCO trao giải thưởng xóa mù chữ cho những cá nhân, tập thể không chỉ biết đọc biết viết đơn thuần, mà phải biết vận dụng những điều đọc được vào cuộc sống của chính họ, cải thiện được cuộc sống nghèo khổ của người mù chữ”

 Câu 4 Nêu tên một cuốn sách hay mà anh chị đã đọc, chỉ ra ít nhất 01 điều mà anh/ chị đã vận dụng được từ việc đọc cuốn sách đó vào cuộc sống của bản thân.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm)

Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: Ngày nay người ta đặc biệt lưu tâm tới yếu tố thứ 6: biết vận dụng những nội dung đã đọc vào cuộc sống của mỗi người đọc để có thể cải thiện được chính cuộc sống của họ.

Câu 2 (5,0 điểm)

Trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ – Vũ Trọng Phụng), mâu thuẫn trào phúng được đẩy lên đến đỉnh điểm ở canh hạ huyệt. Hãy phân tích một số chi tiết trong canh này để làm sáng tỏ điều đó.

GỢI Ý VÀ HƯỚNG DẪN

I. ĐỌC HIỂU

Câu 1 HS có thể trả lời theo những cách sau:

– Kĩ năng đọc;

– Các thao tác tư duy của kĩ năng đọc;

– Kĩ năng đọc có hiệu quả.

Câu 2 Theo đoạn trích, kĩ năng đọc là sự thể hiện tổ hợp những thao tác tư duy được xác lập thành thói quen ứng xử đọc.

Câu 3 Người viết đưa vào đoạn trích hoạt động của UNESCO: “hằng năm… người mù chữ” để làm minh chứng cho quan điểm của mình: “Mục đích cuối cùng của kĩ năng đọc là đọc có hiệu quả cao nhất, nắm chắc nội dung cốt lõi và biết vận dụng những điều đã đọc được vào cuộc sống của chính người đọc”, chứng tỏ quan điểm của mình là đúng đắn, có cơ sở thực tế.

Câu 4 HS cần nêu tên cuốn sách hay mà mình đã đọc và chỉ ra ít nhất 01 điều đã vận dụng được từ việc đọc cuốn sách đó vào cuộc sống của bản thân. Điều vận dụng phải hợp lí, có sức thuyết phục.

II. LÀM VĂN

Câu 1 HS viết 01 đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp hoặc tông – phân – hợp sử dụng một hoặc một số thao tác lập luận trong số các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ…; có lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu để trình bày được suy nghĩ riêng của mình theo hướng thể hiện sự đồng tình hoặc phản đối ý kiến: Ngày nay người ta đặc biệt lưu tâm tới yếu tố thứ 6: biết vận dụng những nội dung đã đọc vào cuộc sống của mỗi người đọc để có thể cải thiện được chính cuộc sống của họ.

– Nếu lập luận theo hướng đồng tình, cần nhấn mạnh: Mỗi tài liệu đọc đều đưa đến cho người đọc những tri thức, kĩ năng mới mẻ, bổ ích về tự nhiên, xã hội… Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc nhận biết những tri thức và kĩ năng ấy thì chưa đủ, người đọc cần phải vận dụng những tri thức, kĩ năng ấy vào thực tiễn để cải thiện cuộc sống, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Muốn vậy, cần rèn luyện kĩ năng đọc.

– Nếu lập luận theo hướng phản đối, cần nhấn mạnh các tài liệu đọc hầu như chỉ cung cấp các kiến thức lí thuyết, nhiều kiến thức không phù hợp hoặc lạc hậu so với thực tiễn. Hơn nữa, không phải ai cũng có thể tiếp cận với những nguồn tài liệu bổ ích hoặc có khả năng phê phán/ thân định tài liệu. Trong thời đại ngày nay, có quá nhiều tài liệu đọc không rõ nguồn gốc, nội dung chưa được kiểm duyệt, nhất là trên các trang mạng xã hội, các trang web. Đó là một kho vàng nhưng cũng chứa những “ổ bệnh”. đầy rẫy hiểm nguy. Vì vậy, sẽ là rủi ro khi người đọc vận dụng tất cả những nội dung đã đọc vào cuộc sống.

– Nếu lập luận theo hướng vừa đồng tình, vừa phản đối ý kiến, cần kết hợp cả hai nội dung trên.

Câu 2. Có thể tham khảo gợi ý sau:

a) Cách quan sát, miêu tả của Vũ Trọng Phụng trong phần cuối đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (từ “Đến huyệt, lúc hạ quan tài” đến hết) rất đặc sắc. Ở đây, mâu thuẫn trào phúng được đẩy lên đến đỉnh điểm. Chi tiết nào cũng có ý nghĩa trong việc làm nổi bật mâu thuẫn ấy. HS có thể chọn một số chi tiết sau để phân tích:

(1) Đến huyệt, lúc hạ quan tài, cậu tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trăng đã bắt bẻ từng người một, hoặc chồng gậy, hoặc gục đầu, hoặc còng lưng, hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ… để cậu chụp ảnh kỷ niệm thúc hạ huyệt. Bạn hữu của cậu rầm rộ nhạy lên những ngôi mà khác mà chụp để cho anh khỏi giống nhau.

(2) Xuân Tóc Đỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ, bên cạnh ông Phan mọc sừng. Lúc cụ Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi, thì ông này cũng khóc to “Hat!… Hết!… Hết!…” […] Ông ta khóc quá, muốn lặng đi thì may có Xuân đỡ khỏi ngã. Nó chật vật mài cũng không làm cho ông đứng hẳn lên được. Dưới cái khăn trăng to tướng, cái áo thụng trăng loè xoè, ông Phan cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi.

– Hứt!… Hứt… Hứt!..

(3) Xuân Tóc Đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi vào tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư… Nó nắm tai cho khoi có người non thấy, rồi đi tìm sư cụ Tăng Phú lạc trong đám ba trăm người đương buôn lậu vì đau đớn vé những điều sơ suất của khổ chu.

b) Phân tích cụ thể

– Với chi tiết (1), cần làm rõ tác dụng của bút pháp tự sự kết hợp với miêu tả, sử dụng biện pháp liệt kê, cách sử dụng các từ láy như luộm thuộm, bắt be, rầm rộ để làm nổi bật hình ảnh cậu tú Tân, những người bạn của cậu và cả đám con cháu của cụ cố tổ trong giây phút hạ huyệt. Thông thường, vào giây phút “tư biệt sinh li” ấy, đám con cháu của người chết khóc than để bày tỏ niềm thương tiếc đối với người đã mất, nhưng ở đây đám con cháu bất hiếu của cụ cố tổ tuy trong lòng đang rất vui sướng, hạnh phúc nhưng lại cố tình tạo dáng” ra và đau đớn. Không những thế, bạn bè của tú Tân còn rầm rộ nhau lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau (trong khi đó, việc nhay hay trèo lên mồ mả là việc cấm kị). Tất cả những việc làm đó thể hiện thói đạo đức gia, hợm hĩnh, rởm đời của xã hội tư sản thành thị đương thời.

– Với chi tiết (2), HS nên tập trung phân tích hình ảnh ông Phán mọc sừng: khóc to “Hứt!… Hứt!… Hứt…” khóc quá, muốn lặng đi, dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng trăng loè xoè, ông Phan cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi. Dưới ngòi bút của Vũ Trọng Phụng, tiếng khóc của ông Phán rất lạ, có thể nói là có một không hai. Khi ông ta khóc, những âm thanh vô nghĩa bật ra khiến người nghe chăng những không cảm thấy bùi ngùi cảm động mà còn thấy buồn cười. Và chắc chắn, tiếng khóc đó không đi kèm với những giọt nước mắt tiếc thương người quá cố. Nó như là tiếng khóc sung sướng (bởi cái chết của cụ cọ tô đã mang lại “hạnh phúc” cho cả một “tang gia”, trong đó có ông). Niềm hạnh phúc bất ngờ khiến cho ông Phan “muốn lặng đi”, “cứ oặt người đi” vì sung sướng. Và tiếng khóc ấy cũng là một cách để ông ta gây sự chú ý đối với mọi người, bởi ai cũng biết để “tang gia” có được niêm “hạnh phúc” này, công của ông Phán mọc sừng là rất lớn.

– Với chi tiết (3), Vũ Trọng Phụng tiếp tục đẩy mâu thuẫn trào phúng của đoạn trích lên đến đỉnh điểm khi “ông Phán dúi vào tay’ nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư… Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy, rồi đi tìm sư cụ Tăng Phú lực trong đám ma trăm người đương buồn rầu và đau đớn về khổ chủ“. Nếu như ở chi tiết (2), ông Phan còn “khóc quá”, “muốn lặng đi”, “cứ oặt người đi” để gây sự chú ý của mọi người thì đến chi tiết này, ta không còn thấy “dáng điệu đau đớn” ấy của ông ta nữa. Thay vào đó là hành động trả ơn kịp thời đối với người có công mang lại “hạnh phúc” cho cả “một tang gia” – Xuân Tóc Đỏ. Hành động “dúi” “cái giấy bạc năm đồng gấp tư” vào tay Xuân Tóc Đỏ cho thấy việc làm tưởng như sòng phẳng song rất mờ ám của ông Phán. Nhưng Xuân Tóc Đỏ cũng mờ ám không kém khi hắn “nặn tay cho khỏi có người nom thấy”. Hắn đã được ông Phan thanh toán thêm một khoản tiền trong “phi vụ hợp đồng làm ăn” với ông này, và để qua đám tang cụ tổ mà càng thêm danh tiếng : “Ông cụ già chết, danh dự của Xuân lại càng to thêm”.

c) Đánh giá:

Tóm lại, chỉ bằng những chi tiết trào phúng, Vũ Trọng Phụng đã chộp được những khoảnh khắc rất “thần” trong cảnh hạ huyệt, qua đó vạch trần bản chất đạo đức gia, hợm hĩnh, rởm đời của những người đi đưa ma, trong đó nhà văn đã miêu tả cận cảnh những đứa con, đứa cháu bất hiếu của người chết để thấy “hạnh phúc của một tang gia” và cả những người ngoài tang quyến một cách trọn vẹn. Và khi đó, tiếng cười trào phúng được bật lên sảng khoái nhất nhưng cũng đau đớn nhất.

Nguồn website giaibai5s.com

Đề thực hành luyện tập thi THPT quốc gia môn Ngữ văn – Đề 7
Đánh giá bài viết