I. ĐỌC HIỂU ( (3,0 điểm)

Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu:

NƠI DỰA

 Người đàn bà nào dắt đứa nhỏ đi trên đường kia? 

Khuôn mặt trẻ đẹp chìm vào những miền xa nào…

Đứa bé đang lẫm chẫm muốn chạy lên, hai chân nó cứ ném về phía trước, bàn tay hoa hoa một điệu múa kì lạ.

Và cái miệng nhỏ líu lo không thành lời, hát một bài hát chưa từng có.

Ai biết đâu, đứa bé bước còn chưa vững lại chính là nơi dựa cho người đàn bà kia sống.

Người chiến sĩ nào đỡ bà cụ trên đường kia? 

Đôi mắt anh có cái ánh riêng của đôi mắt đã nhiều lần nhìn vào cái chết. 

Bà cụ lưng còng tựa trên cánh tay anh, bước từng bước run lá.

Trên khuôn mặt già nua, không biết bao nhiêu nếp nhăn đan vào nhau, mỗi nếp nhăn chứa đựng bao nỗi cực nhọc gắng gọi một đời.

Ai biết đâu, bà cụ bước không còn vương lại chính là nơi dựa cho người chiến sĩ kia đi qua những thử thách.

(Nguyễn Đình Thi, Tia nắng, NXB Văn học, H., 1983)

Câu 1 Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài thơ.

Câu 2 Giải thích nhan đề của bài thơ: Nơi dựa.

Câu 3 Hai phần của bài thơ có gì giống nhau?

Câu 4 Các hình ảnh em bé và bà cụ gợi cho anh chị suy nghĩ gì về “nơi dựa” của con người trong cuộc sống?

II. LÀM VĂN ( (7,0 điểm)

Câu 1(2,0 điểm)

Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về tầm quan trọng của “nơi dựa” trong cuộc sống của mỗi con người.

Câu 2 (5,0 điểm)

Sự phù hợp giữa các yếu tố hình thức (nhan đề truyện, không gian, thời gian, điểm nhìn, nghệ thuật miêu tả, ngôn ngữ) với nội dung tư tưởng của truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam).

GỢI Ý VÀ HƯỚNG DẪN

I. ĐỌC HIỂU 

Câu 1 Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài thơ là biểu cảm.

Câu 2 Nơi dựa – chỗ (nơi, vị trí, người, vật) để ta tựa vào nhằm có thêm sức mạnh (cả vật chất và tinh thần). Nơi dựa trong bài thơ là nơi dựa về mặt tinh thần, tình cảm của mỗi con người.

Câu 3 Hai phần của bài thơ có cách cấu trúc và hình tượng tương tự như nhau.

Cụ thể là: Số lượng câu thơ ở mỗi phần như nhau và mỗi phần đều có 2 hình tượng nghệ thuật cùng làm nổi bật chủ đề của bài thơ.

Câu 4 HS trả lời theo cách hiểu riêng của mình, lập luận cần chặt chẽ, có sức thuyết phục. Tham khảo hướng trả lời sau: Hình ảnh em bé và bà cụ cho thấy trong cuộc sống, nhiều khi “nơi dựa” vững chắc cho mỗi người không phải là những người trẻ, khoẻ, đầy đủ về vật chất… mà lại chính là những người có vẻ yếu đuối, bé nhỏ, mong manh (như em nhỏ, cụ già…). “Nơi dựa” thực sự của mỗi người chính là nơi chúng ta tìm thấy sự bình tâm, niềm tin tưởng, sự bình yên… để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.

II. LÀM VĂN

Câu 1 HS viết 01 đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp hoặc tông – phân – hợp…; sử dụng một hoặc một số thao tác lập luận trong số các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ,…; có lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu để trình bày được suy nghĩ riêng của mình về tầm quan trọng của “nơi dựa” trong cuộc sống của mỗi con người.

– Nếu lập luận theo hướng khẳng định tầm quan trọng (mặt phai, mặt tích cực) của “nơi dựa”, cần nhấn mạnh và làm rõ: Nơi dựa là gì? Tại sao trong cuộc sống, mỗi người đều cần phải có “nơi dựa”, nhất là chỗ dựa về tinh thần? (để có thêm sức mạnh; để khỏi “chơi vơi”, “chông chênh”, “mất thăng bằng” khi gặp phải những khó khăn, vất va)

– Nếu lập luận theo hướng phủ định (chì ra mặt trái, mặt tiêu cực) của “nơi dựa”, cần nhấn mạnh và làm rõ ý: mỗi người phải biết tự lực, tự đứng vững trên đôi chân của mình, không nên dựa dẫm, ỷ lại vào người khác.

– Nếu lập luận theo hướng vừa khẳng định vừa phủ định tầm quan trọng của “nơi dựa”, cần kết hợp cả hai nội dung trên.

Câu 2 Đề bài yêu cầu HS làm rõ sự phù hợp giữa yếu tố hình thức (bao gồm nhan đề truyện, không gian, thời gian, điểm nhìn, nghệ thuật miêu tả, ngôn ngữ) và nội dung tư tưởng của truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam). HS có thể trình bày theo những cách khác nhau, tham khảo cách trình bày sau:

a) Âm hưởng bao trùm và chỉ đạo của truyện ngắn Hai đứa trẻ là niềm cảm thương, xót xa chân thành của nhà văn đối với cuộc sống chìm khuất, mài mòn, quẩn quanh của những kiếp người nhỏ nhoi nơi phố huyện bình lặng, tối tăm, cùng những ước mong khiêm nhường mà thiết tha của họ. Đây cũng chính là nội dung tư tưởng của tác phẩm, thực chất là chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của Thạch Lam.

b) Để thể hiện nội dung ấy, tác giả đã lựa chọn các yếu tố hình thức phù hợp như cách đặt tên cho truyện; cách xây dựng không gian, thời gian nghệ thuật; cách lựa chọn điểm nhìn; nghệ thuật miêu tả và ngôn ngữ.

– Nhan đề truyện: Hai đứa trẻ không đơn thuần là chỉ hai nhân vật chính của thế giới con người nơi phố huyện (Liên và An) mà quan trọng là gợi lên trong lòng người đọc hình ảnh hai con người bé nhỏ, yếu đuối… phù hợp với cảm hứng xót xa, thương cảm… Nếu so sánh với tiêu đề Hai chị em sẽ thấy rõ điều này. Đó chính là đối tượng để nhà văn thể hiện tư tưởng nhân đạo mới mẻ của mình.

– Không gian, thời gian: không gian của thiên truyện là không gian tù túng, nhếch nhác, tàn lụi của phiên chợ đã “vãn từ lâu”, “chị còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía” với “một mùi âm ẩm bốc lên” cùng hình ảnh “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi”… khiến Liên “động lòng thương”. Thời gian của truyện là thời điểm bắt đầu từ lúc chiều tàn cho đến tận đêm khuya; phố huyện bị bao phủ, tràn ngập bơi bóng tối, mấy đốm sáng nhỏ từ gánh phở của bác Siêu và ngọn đèn của chị Tí… càng tô đậm thêm sự tối tăm của không gian phố huyện.

Có thể nói, không gian và thời gian đã làm nổi bật bức tranh cuộc sống mỏi mòn, quấn quanh, bế tắc, lụi tàn của những người lao động nghèo khổ, bé nhỏ nơi phố huyện.

– Điểm nhìn: cảnh và người nơi phố huyện được nhìn, cảm nhận qua con mắt tâm trạng của hai đứa trẻ” mà chủ yếu là qua con mắt, tâm trạng của cô bé Liên, một thiếu nữ dịu hiền, nhân hậu, đa cảm, đa sầu. Điều này phù hợp với cảm hứng nhân đạo của Thạch Lam và đặc điểm của truyện ngắn trữ tình. Điểm nhìn ấy khiến cho cảnh vật vốn đơn điệu, tẻ nhạt trở nên thân đượm cảm xúc, tâm trạng, có hồn hơn với cái thi vị và sức sống riêng của nó.

– Nghệ thuật miêu tả: miêu tả tinh tế sự biến đổi của cảnh vật và diễn biến tâm trạng của nhân vật

  • Có sự tương ứng giữa thế giới ngoại cảnh (bức tranh phố huyện) với thể giới nội tâm nhân vật (tâm trạng của cô bé Liên) trong từng thời khắc: canh chiều buông thì người buồn thương man mác; cảnh đêm xuống thì người buồn khắc khoải, cảnh đêm khuya khi chuyến tàu đi qua thì người buôn tiếc. mơ tương, khát khao,
  • Tính chất không thuần nhất của thế giới ngoại cảnh và thế giới nội tâm: có một sự pha trộn buồn vui khó tả, hay một sự thống nhất giữa nhiều sắc thái tương phản từ ngoại cảnh và từ nội tâm. Những hình ảnh êm đềm thi vị hoà trộn với hình ảnh nghèo nàn lam lũ, ánh sáng hoà trộn với bóng tối, cái huyên náo chốc lát hoà vào cái im lặng mênh mông; …

Nghệ thuật miêu tả trong thiên truyện cho thấy sự cảm thông, trị ngộ sâu sắc của nhà văn, đến mức tưởng như đã nhập hẳn vào tâm trạng, cảnh ngộ của nhân vật để mà diễn tả tất cả cái mong manh, mơ hồ “khó tả” nhất của tâm hồn con người (chẳng hạn: “Liên không hiểu sao…”, “mong đợi một cái gì…”, “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi…”).

– Ngôn ngữ rất giàu chất thơ: chủ yếu là ngôn ngữ miêu tả và độc thoại nội tâm với giọng điệu nhẹ nhàng, thấm thía. Ca thiên truyện như một bài thơ trữ tình đượm buồn.

c) Đánh giá: Khẳng định tài năng viết truyện ngắn của Thạch Lam.

Nguồn website giaibai5s.com

Đề thực hành luyện tập thi THPT quốc gia môn Ngữ văn – Đề 3
Đánh giá bài viết