A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

I. Cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông Cổ (1258)

1. Âm mưu xâm lược Đại Việt của Mông Cổ

– Thế kỉ XIII, vua Mông Cổ xâm lược và thống trị nhiều nước ở Châu Á, châu Âu.

– Năm 1957, vua Mông Cổ quyết định tấn công Nam Tống để chiếm toàn bộ Trung Quốc. Để thực hiện tham vọng đó, vua Mông Cổ sai tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy 3 vạn quân xâm lược Đại Việt, rồi từ Đại Việt đánh thẳng lên phía nam Trung Quốc để phối hợp với các cánh quân phía Bắc xuống. Đó là kế hoạch “gọng kìm” để tiêu diệt Nam Tống và xâm lược Đại Việt.

– Trước khi kéo quân vào xâm lược, tướng Mông Cổ cho sứ giả đưa thư đe dọa và dụ hàng vua Trần. Ba lần sứ giả Mông Cổ đến Thăng Long đều bị vua Trần ra lệnh bắt giam vào ngục.

2. Nhà Trần chuẩn bị và tiến hành kháng chiến chống quân Mông Cổ

– Nhà Trần chuẩn bị:

+ Ban lệnh cho cả nước sắm sửa vũ khí.

+ Thành lập các đội dân binh, ngày đêm luyện tập võ nghệ.

– Kháng chiến chống quân Mông Cổ

Tháng 1-1258, 3 vạn quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy tiến vào xâm: lược nước ta. Quân ta lo vua Trần Thái Tông chỉ huy chặn đánh quân địch ở Bình Lệ Nguyên.

Do thế giặc mạnh, vua tôi nhà Trần lui quân về Thiên Mạc.

Nhân dân Thăng Long theo lệnh của triều đình thực hiện “vườn không, nhà trống”, rút khỏi kinh thành. Quân Mông Cổ kéo vào Thăng Long nhưng không có một bóng người và lương thực.

– Trước thế giặc mạnh, vua Trần hỏi ý kiến Thái sư Trần Thủ Độ. Ông trả lời: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”.

Chưa đầy một tháng, quân Mông Cổ thiếu lương thực phải cho quân lính đi cướp bóc, nhưng nhân dân các làng xã đã chống trả quyết liệt.

Nắm được thời cơ, quân đội nhà Trần mở cuộc phản công lớn ở Đông Bộ Đầu.

Ngày 29-1-1258, quân Mông Cổ thua trận phải rời khỏi Thăng Long. Trên đường rút chạy, bị quân đội nhà Trần truy kích. Đến vùng Quy Hóa, lại bị quân của Hà Bống chặn đánh. Giặc hốt hoảng tháo chạy về nước. Cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi.

II. Cuộc kháng chiến lần thứ hai chống quân xâm lược Nguyên (1285)

1. Âm mưu xâm lược Cham Pa và Đại Việt của nhà Nguyên

Năm 1979, nước Nam Tống bị tiêu diệt. Vua Nguyên là Hốt Tất Liệt ráo riết thực hiện âm mưu xâm lược Cham Pa và Đại Việt để làm cầu nối xâm lược và thôn tính các nước phía Nam Trung Quốc.

Hốt Tất Liệt cho quân đánh Cham Pa để làm bàn đạp tấn công phía nam Đại Việt, phối hợp với cánh quân của Thoát Hoan từ Trung Quốc đánh vào phía Bắc.

Năm 1283, hơn một vạn quân Nguyên cùng 300 chiến thuyền do Toa Đô chỉ huy xâm lược Cham Pa, chiếm được kinh thành. Quân dân Cham Pa chiến đấu anh dũng; quân Nguyên rút một bộ phận về cố thủ ở phía Bắc chờ phối hợp đánh Đại Việt.

Kế hoạch dùng Cham Pa làm bàn đạp tấn công Đại Việt của quân Nguyên đã thất bại.

2. Nhà Trần chuẩn bị kháng chiến

– Vua Trần triệu tập hội nghị các vương hầu, quan lại ở Bình Than để bàn kế đánh giặc.

Trần Quốc Toản căm giận quân giặc bóp nát quả cam lúc nào không biết.

Trần Quốc Tuấn được giao trọng trách Quốc công tiết chế – chỉ huy cuộc kháng chiến. Ông soạn Hịch tướng sĩ để động viên tinh thần chiến đấu của quân đội.

– Năm 1285, vua Trần mở Hội nghị Diên Hồng, mời các bậc phụ lão có uy tín trong nước về dự họp bàn cách đánh giặc. Khi vua Trần hỏi kế đánh giặc “các phụ lão đều nói là nên đánh, muôn người cùng lời như một

– Nhà Trần tổ chức tập trận lớn và duyệt binh ở Đông Bộ Đầu rồi chia quân đóng giữ những nơi hiểm yếu.

– Cả nước được lệnh chuẩn bị sẵn sàng đánh giặc. Quân sĩ đều thích vào cánh tay hai chữ “Sát Thát”.

3. Diễn biến và kết quả của cuộc kháng chiến

Cuối tháng 1-1285, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan làm tổng chỉ huy tràn vào xâm lược Đại Việt. Sau vài trận chặn giặc ở biên giới, Trần Quốc Tuấn cho quân lui về Vạn Kiếp.

Quân Thoát Hoan tấn công Vạn Kiếp. Quân Trần lui về Thăng Long sau đó rút về Thiên Trường. Nhân dân Thăng Long thực hiện “vườn không nhà trống”

Quân Thoát Hoan kéo vào Thăng Long trống vắng, chúng phải dựng trại phía Bắc sông Nhị.

Toa Đô từ Cham Pa đánh ra Nghệ An, Thanh Hóa. Thấy giác mạnh, một số quý tộc nhà Trần đầu hàng. Cuộc kháng chiến gặp nhiều khó khăn.

Cùng lúc đó, Thoát Hoan đích thân chỉ huy một lực lượng mạnh đánh xuống phía Nam nhằm tạo thành thế “gọng kìm” hàng tiêu diệt quân chủ lực của ta và bắt sống toàn bộ đầu não cuộc kháng chiến. Trước tình thế đó, Trần Quốc Tuấn ra lệnh rút lui. Thoát Hoan phải rút quân về Thăng Long. Quân Nguyên lâm vào tình thế bị động, thiếu lương thực.

Tháng 5-1285, lợi dụng thời cơ, quân Trần đã tổ chức phản công đánh bại quân giặc ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương và tiến vào giải phóng Thăng Long.

Quân giặc tháo chạy, bị quân Trần phục kích chặn đánh. Thoát Hoan vất vả lắm mới chạy thoát về nước.

Đạo quân của Toa Đô bị đánh tan ở Tây Kết, Toa Đô bị chém đầu.

Đất nước sạch bóng quân xâm lược, cả dân tộc ca khúc khải hoàn.

III. Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân xâm lược Nguyên (1287-1288)

1. Nhà Nguyên xâm lược Đại Việt

Sau hai lần xâm lược Đại Việt thất bại, vua Nguyên hết sức tức giận, quyết tâm đánh Đại Việt lần thứ ba để trả thù. Hốt Tất Liệt đình chỉ cuộc lược Nhật Bản, tập trung lực lượng tiến công Đại Việt.

Trong lần xâm lược thứ ba, quân Nguyên huy động 30 vạn quân do Thoát Hoan làm tổng chỉ huy, đoàn thuyền lương do Trương Văn Hổ chỉ huy.

Cuối tháng 12-1287, quân Nguyên ồ ạt kéo vào nước ta. Cánh quân bộ do Thoát Hoan chỉ huy tiến đánh Lạng Sơn, Bắc Giang. Quân Trần rút khỏi Vạn Kiếp và một số nơi về vùng sông Đuống chặn giặc vào Thăng Long.

Thoát Hoan chiếm đóng Vạn Kiếp.

Đoàn thuyền chiến do Ô Mã Nhi chỉ huy theo đường biển ngược sông Bạch Đằng đến Vạn Kiếp hội quân với Thoát Hoan.

2. Trận Vân Đồn tiêu diệt đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ

Trần Khánh Dư dự đoán khi đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi đi qua có thể đánh được đoàn thuyền lương nên đã bố trí một trận mai phục. Mấy ngày sau, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đi qua Vân Đồn bị quân của Trần Khánh Dư đổ ra đánh. Phần lớn thuyền lương bị đắm, số còn lại bị quân Trần chiếm.

3. Chiến thắng Bạch Đằng

– Cuối tháng 1-1288, Thoát Hoan chia quân làm ba đạo tiến vào Thăng Long. Nhân dân đã thực hiện “vườn không nhà trống” nên Thăng Long trống vắng.

Sau khi chiếm Thăng Long, Thoát Hoan cho quân tiến đánh các căn cứ của quân Trần và sai Ô Mã Nhi đuổi bắt hai vua Trần, nhưng thất bại.

Những nơi xung yếu của quân Nguyên bị quân Trần chiếm lại, quân giặc đi cướp lương thực thì bị nhân dân đuổi đánh. Địch bị rơi vào thế bị động, thiếu lương thực. Quân Nguyên ở Thăng Long có nguy cơ bị cô lập, tinh thần quân lính hoang mang, tuyệt vọng. Trước tình thế nguy khốn, Thoát Hoan quyết định rút quân lên Vạn Kiếp và từ đó rút về nước theo hai đường thủy bộ.

– Nhận thấy thời cơ tiêu diệt quân Nguyên đã đến. Trần Quốc Tuấn bố trí mai phục ở sông Bạch Đằng.

Đầu tháng 4-1288, đoàn thuyền do Ô Mã Nhi chỉ huy có kị binh hộ tống rút về theo đường thủy trên sông Bạch Đằng bị quân Trần đánh cho tan tác. Ô Mã Nhi bị bắt sống.

– Thoát Hoan chỉ huy quân bộ rút chạy theo hướng Lạng Sơn bị quân dân ta tập kích liên tiếp. Cuộc kháng chiến lần thứ ba kết thúc thắng lợi vẻ vang.

IV.Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên

1. Nguyên nhân thắng lợi

– Tất cả các tầng lớp nhân dân, các thành phần dân tộc đều tham gia đánh giặc.

– Lãnh đạo sáng suốt và tài năng của chính quyền nhà Trần.

– Sự đoàn kết, gắn bó của quí tộc, vương hầu nhà Trần mà tiêu biểu là Trần Quốc Tuấn.

– Tinh thần hi sinh, quyết chiến, quyết thắng của toàn dân, toàn quân.

– Chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo của Vương triều Trần

2. Ý nghĩa lịch sử

– Đập tan tham vọng, ý chí và hành động xâm lược Đại Việt của nhà Nguyên, bảo vệ được độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của dân tộc.

– Góp phần xây đắp nên truyền thống quân sự Việt Nam, truyền thống chiến đấu của một nước nhỏ nhưng luôn phải chống lại những kẻ thù mạnh hơn nhiều lần đến xâm lược.

– Để lại bài học vô cùng quý giá, đó là củng cố khối đoàn kết toàn dân.

BÀI TẬP

Câu 1. Hãy khoanh tròn chỉ một chữ in hoa trước câu trả lời đúng

1. Câu trả lời vua Trần “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” là của

A. Trần Thủ Độ.

B. Trần Quốc Tuấn.

C. Trần Quốc Toản.

D. Trần Khánh Dư.

2. Trận phản công lớn của quân đội nhà Trần buộc quân Mông Cổ phải rời khỏi Thăng Long diễn ra ở

A. Tây Kết.

B. Động Bộ Đầu.

C. Hàm Tử.

D. Chương Dương.

3. Ai đã chỉ huy cuộc chặn đánh quân Mông Cổ ở Quy Hóa?

A. Trần Quốc Tuấn.

B. Vua Trần.

C. Hà Bổng.

D. Trần Khánh Dư.

4. Hịch tướng sĩ là của

A. Trần Quang Khải.

B. Trần Thủ Độ.

C. Trần Khánh Dư.

D. Trần Quốc Tuấn.

5. Câu trả lời “Nếu bệ hạ muốn hàng thì trước hãy chém đầu thần rồi hãy hàng” là của

A. Trần Quốc Tuấn.

B. Trần Thủ Độ.

C. Trần Quốc Toản.

D. Trần Khánh Dư.

6. Tướng Toa Đô bị chém đầu ở

A. Đông Bộ Đầu.

B. Tây Kết.

C. Vạn Kiếp.

D. Hàm Tử.

7. Chỉ huy trận Vân Đồn diệt đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ là

A. Trần Quốc Toản.

B. Trần Quốc Tuấn.

C. Trần Khánh Dư.

D. vua Trần.

8. Trận đánh nào, quân Trần đã bắt sống Ô Mã Nhi?

A. Tây Kết.

B. Vạn Kiếp.

C. Hàm Tử.

D. Bạch Đằng.

Câu 2. Cách đánh giặc của nhà Trần trong ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên có những điểm nào giống nhau?

Câu 3. Cách đánh giặc của nhà Trần trong cuộc kháng chiến lần thứ ba có gì khác so với lần thứ nhất và lần thứ hai?

 

ĐÁP ÁN BÀI TẬP

Câu 1. 1A, 2B, 3C, 4D, 5A, 6B, 7C, SD.

Câu 2. Những điểm giống nhau:

– Tránh thế giặc mạnh lúc đầu, vừa chặn giặc vừa rút lui để bảo toàn lực lượng, khi thời cơ đến thì phản công tiêu diệt.

– Thực hiện “vườn không, nhà trống”.

Câu 3. Khác:

– Đánh đoàn thuyền lương.

– Bố trí trận địa bãi cọc ở sông Bạch Đằng để tiêu diệt đoàn thuyền chiến.

Nguồn website giaibai5s.com

Để học tốt Lịch sử Lớp 7 – Bài 14: Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên (thế kỉ XIII)
Đánh giá bài viết