Đề 62 – Vẻ đẹp ngôn ngữ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

BÀI LÀM

Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du có giá trị về nhiều mặt. Một trong các giá trị nghệ thuật Truyện Kiều là về ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong Truyện Kiều có sự kết hợp giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ bác học.

– Bây giờ mới rõ tăm hơi
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!
– Đừng điều nguyệt nọ hoa kia
Ngoài ra ai có tiệc gì với ai.

Những câu thơ không kém phần sâu sắc:

Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho kĩ ngọn nguồn lạch sông.

Được xây dựng như một chiêm nghiệm từ cuộc sống bình dị hàng ngày của nhân dân với ngôn ngữ, thành ngữ vuông tròn với không gian ngọn nguồn lạch sông. Không có gì xa lạ với chúng ta mà sao qua cách sử dụng tài tình sáng tạo của Nguyễn Du có mang một ý nghĩa sâu sắc vô cùng về một quan niệm nhân sinh đúng đắn. Ta bắt gặp trong ca dao hình ảnh cách nói:

Chàng đi phụ thiếp làm chi
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng.

Đến Truyện Kiều của Nguyễn Du cách ví von so sánh đó được thể hiện:

Thiếp như hoa đã lìa cành
Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.

Cách vận dụng thành ngữ một cách sáng tạo:

– Lo gì việc ấy mà lo
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu
– Rằng: nàng muôn dặm một thân
Lại mang lấy tiếng dữ gần lành xa
– Cũng là mướp đắng mạt cưa một phường
– Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Ta có thể kể ra rất nhiều ví dụ trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân trong đời sống hàng ngày. Điều này cho ngôn ngữ Truyện Kiều trở nên thân thuộc gần gũi với nhân dân và mang đậm tính dân tộc.

Mặt khác ngôn ngữ trong Truyện Kiều có tính bác học, là ngôn ngữ có chất cổ điển, với cách sử dụng từ ngữ trau chuốt, điêu luyện. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng nhiều điển tích, sử dụng các từ Hán Việt làm cho nó có tính bác học. Có thể nói các điển tích, điển cố là rất nhiều: 

– Ra tuồng trên bộc trong dâu
Thì con người ấy ai cần làm chi
– Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
– Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.

Các từ ngữ Hán Việt được dùng khéo léo làm cho lời thợ thêm trang trọng: dạ đài, tình quân, bộ liễu, xuân huyên, tấc vàng, trường đào, tri âm, hoàng hôn, hoa khôi, nhãn tiền, quan tới, quan sơn…

Ngôn ngữ trau chuốt điêu luyện tài tình trong Truyện Kiều đã vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp.

– Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
– Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
– Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông
– Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

Ta thấy ngôn ngữ Truyện Kiều đầy hình ảnh mang những nét đẹp sống động đầy màu sắc trang nhã.

Trong Truyện Kiều ta bắt gặp nhiều hình ảnh ẩn dụ so sánh ví von tạo cho câu thơ giàu hình ảnh, giàu sắc thái biểu cảm.

Một đặc sắc trong cách nói đó là luôn lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người của cuộc sống. Chính vì vậy sự việc luôn được diễn đạt bằng cách nói từ những hiện tượng thiên nhiên. Để nói về người con gái, Nguyễn Du nói đến hoa, liễu:

Nặng lòng xót liễu vì hoa

Đó là tấm lòng thương xót, yêu vì người con gái mềm mại như cây liễu, đẹp như hoa. Hay cách nói năng của người con gái cũng được diễn đạt bằng vẻ đẹp của thiên nhiên:

Hoa cười ngọc thốt đoan trang
…Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

Chính ngôn ngữ ẩn dụ được vận dụng một cách sáng tạo khiến cho ngôn ngữ thơ ý nhị mà sâu sắc.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dùng rất nhiều cách so sánh khác nhau hơn kém, ngang bằng…

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.

So sánh giữa hai con người với nhau. Lấy hai vật để nói về con người với ý ngang bằng:

– Cũng phường buôn thịt bán người
– Cũng là mướp đắng mạt cưa một phường
– Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau
– Lửa tân càng dập càng nồng

Biện pháp nhân hoá được thể hiện trong Truyện Kiều

– Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
– Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

Ngôn ngữ trong Truyện Kiều là ngôn ngữ mang tính ước lệ giàu tính chất tượng trưng… 

Nói về nỗi buồn là nói về hoàng hôn, chiều tà:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Lấy thiên nhiên để thể hiện dòng trôi chảy của thời gian:

Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.

Hay:

Sân ngô cành bích đã chen lá vàng..

Ta còn thấy một thành công trong ngôn ngữ Truyện Kiều là ngôn ngữ chính xác mà không thể thay thế nó bằng ngôn ngữ khác:

Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Cậy, chịulạy ở đây tưởng như không hợp với văn cảnh nhưng thực ra nó chính xác mà không thể thay thế.

Có những loại ngôn ngữ chính xác đến mức chỉ một từ mà có thể diễn đạt được tính cách của nhân vật một cách hoàn chỉnh. Nó nói lên được bản chất của nhân vật. Ví dụ như chữ tót để nói lên sự thô lỗ, vô học của Mã Giám Sinh:

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Chữ nhờn nhợt để diễn tả Tú Bà:

Nhác trông nhàn nhạt màu da
Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao.

Chữ “mặt sắt” chỉ Hồ Tôn Hiến:

Trông lên mặt sắt đen xì

Đó là ngôn ngữ bám sát nhân vật, thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Du.

Có thể nói ngôn ngữ trong Truyện Kiều là một vấn đề rất thú vị mà chúng ta có thể khai thác trên nhiều bình diện. Ngôn ngữ Truyện Kiều đầy sức lay động, thuyết phục đến mức không thể nào thay thế được. Nguyễn Du đã sử dụng, phát triển và sáng tạo ngôn ngữ có sức sống lâu bên, hoàn hảo nhất.

Đề 62 – Vẻ đẹp ngôn ngữ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Đánh giá bài viết