Tất cả, năm khổ thơ với vỏn vẹn trăm từ, thoáng qua như một phim tài liệu cực ngắn. Nhưng do đâu điệu buồn của nó chưa thôi day dứt lớp người ở những năm cuối của thế kỉ 20, mà phần lớn xa lạ với Hán học và có khi chưa một lần nhìn thấy hình ảnh ông đồ khăn đóng, áo the của một thời! Những bạn đọc của thời mở cửa, đang háo hức với một ngoại ngữ phổ biến hơn cả thứ tiếng đã thay thế chữ nghĩa của ông đồ ngày nào, đồng cảm thế nào với bài thơ? Họ tìm thấy điều gì gần gũi ở ông già cô đơn ấy, khi ngay những kẻ qua đường cùng thời đã tỏ ra hững hờ?

Sự gắn bó và giọng điệu đều đều thường thấy ở thơ ngũ ngôn lại giúp cho bài thơ mở đầu có giọng khách quan, kiềm chế tình cảm. Hai khổ thơ đầu toàn tả thực cũng hỗ trợ tốt cho mục đích này:

“Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài”

Nhưng chỉ qua khổ thứ ba, giọng khách quan này liền bị phá vỡ bởi hai câu thơ vào loại xuất thần:

“Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu…”

Chao ơi, đến hoa mà phương Đông tin là có thần, có hồn còn vô tình “y cựu tiếu động phong”, nghĩa là hóa ra vẫn là loài vô tri, vô giác, nói chi hạng giấy, mực. Thứ mực phảng phất sầu và loại giấy buồn mà không thắm ấy chỉ có thể là thứ giấy và mực bị nhòe đi, rưng rưng trước mắt người biết chuyện đấy thôi!

Màu giấy đỏ và sắc hoa đào. Những xác lá vàng lay lắt rơi rơi quanh cái dáng đen sẫm, bất động của ông đồ già. Tình người nhạt dần theo mỗi khổ thơ:

“Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?

Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay”

Cho đến khi lụi tàn hơn, và đất trời hình như cũng muốn hòa vào cuộc ngậm ngùi chung bằng làn mưa bụi bay và cái tiết trời bỗng dưng da diết.

Cảnh ấy sắc ấy tình ấy hòa hiệp với nhau đưa cảm xúc cao dần để tiếng thở dài cuối cùng:

“Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?”

Trở nên sâu vắng hơn, lay động tình người hơn.

Ở mặt khác bài thơ lại đan chéo những cặp đối nghịch: cái tất bật của khách qua đường và sự đơn độc của ông đồ, cái buồn thấu xương của kiếp người lạc lõng bến cảnh phố phường rộn ràng mừng xuân mới. Và bất nhẫn làm sao lặng lẽ của người đại diện cuối cùng của nền Hán học tàn tạ, lặng lẽ cả lúc rút lui lại diễn ra ở một nơi ồn ào, trần ai bậc nhất trên thế gian: hè phố! Cái đám tang tự đưa giữa phố đông hững hờ mà người tri âm duy nhất lại có mặt khi cỗ xe khuất bóng từ lâu rồi!

Có sự dồn nén thái quá những cặp hỏa hiệp và đối nghịch trên vuông thơ nhỏ hẹp có 100 từ này. Nhưng là sự thái quá làm nên kiệt tác. Mỗi chúng ta sau phút lặng người, và gần như tránh mặt nhau vì cái cảm giác đồng trách nhiệm nào đó, bỗng bắt đầu giành nhau lên tiếng. Nhưng tất cả như bị hút, bị dạt đi trong cái từ trường do chính im lặng của nhân vật. Vâng, âm thanh có trọng lượng nhất mà bài thơ tạo được chính là sự im lặng tuyệt đối của ông đồ. Nó đè nặng lên tim. Nó khuấy động não bộ. Nó tạo trạng thái tinh thần bất ổn cần thiết để đối mặt với bất cứ một vấn đề nghiêm túc nào. Có điều, đâu thực sự vào vấn đề là tầng cảm xúc chính của bài thơ?

Hoài cổ ở đây không phải là tiếc nuối thứ chữ “rồng bay phượng múa” của ông đồ. Từ ngày ông đồ già không trở lại, xã hội đã mấy lần chứng kiến cảnh thay bậc, đổi ngôi về ngôn ngữ – bản thân nhà thơ là một người giỏi tiếng Pháp, thứ ngôn ngữ đã thay thế thứ chữ mà ông đồ đã viết trên giấy hồng điều thuở nào – nhưng không thấy một sáng tác nào về “ông đồ” Tây hay “ông đồ” Nga… xuất hiện. Chưa nói dẫu có, chúng cũng không thể tạo được sự đồng cảm rộng rãi như đã thấy với “ông đồ”. Sự thực, sự thay đổi Hán học qua Tây học, có một ý nghĩa đặc biệt của nó. Suốt bao thế kỉ Hán học gắn với dân tộc, gắn với những giá trị nhân bản của phương Đông. Đấy là thứ chữ ông cha ta đã dùng để trước tác. Nó không những là ngôn ngữ hành chính, thi cử, mà còn là ngôn ngữ tâm linh của đền chùa, kinh kệ, văn tế. Tựa như gác chuông, tháp chùa, hình ảnh ông đô, câu đối… từ lâu đã thân thu mọi người. Đã đành việc Tây học thế chân là một tất yếu của thời đại và của hoàn cảnh đất nước ngày đó. Chưa nói cái học từ chương, nệ cố đã góp phần làm suy vi sức mạnh của dân tộc, nhưng một dân tộc tự trọng từng trải qua bao thế kỉ tự chủ và đã từng dòng chữ Hán như ngôn ngữ chính của một quốc gia độc lập không thể quên rằng Tây học đã “nhập khẩu” vào đất nước mình như một sự áp đặt cùng với tàu chiến và đại bác, mà cảnh sụp đổ của cái học cũ luôn gửi lại vết thương vong quốc của mình.

Và có thể vượt qua ý đồ của tác giả và nhà phê bình, bài thơ đã tìm thêm được sự đồng cảm trong tâm thức dao động, phức tạp của cả một dân tộc trong buổi giao thời khi giá trị truyền thống có nguy cơ mai một trong lúc cái mới chưa thu phục được nhân tâm, nó đánh vào lòng tự trọng bị xúc phạm và cả tâm lí phù suy, xót thương kẻ khó. Mặt khác, nó còn gợi tâm trạng khắc khoải đi tìm nguồn cội trước cuộc triển lãm khổng lồ của những cảnh lố lăng, kệch cỡm thường thấy ở các buổi giao thời.

Sự biểu lộ tình cảm đối với ông đồ già và sự lưu luyến với hình ảnh đã mai một ấy trong lòng bạn đọc suốt hơn nửa thế kỉ qua hẳn phản ánh những tâm sự phức tạp những ưu tư đa dạng hơn chúng ta tưởng.

Giaibai5s.com

Đề 45: Phân tích bài thơ “Ông đồ”
Đánh giá bài viết