HƯỚNG DẪN

1. Giá trị nội dung

a) Tinh thần thơ mới là nội dung cơ bản, luận điểm bao trùm đoạn trích này và được tác giả triển khai thành ba nội dung chính:

– Giới thuyết nguyên tắc để xác định tinh thần của hai thời đại thơ là: không căn cứ vào cái cục bộcái dở của mỗi thời mà phải căn cứ vào cái haycái đại thể của thơ mỗi thời.

– Xác định tinh thần thơ mới là cái tôi và tinh thần thơ cũ là cái ta. Giữa cái tôicái ta có những điểm giống và khác nhau, xét về bản chất cái ta là ý thức đoàn thể còn cái tôi là ý thức cá nhân.

– Cái tôi xuất hiện trên thị đàn Việt Nam là cả một quá trình, lúc đầu là sự bỡ ngỡ, lạc loài, gặp rất nhiều phản ứng của xã hội nhưng ngày càng mất dần cái vẻ bỡ ngỡ đó và được vô số người quen. Sự vận động của thơ mới trong việc đào sâu cái tôi đã gặp rất nhiều bi kịch không dễ gì giải quyết. Cuối cùng, giải pháp cho bi kịch đó chính là các nhà thơ mới đã tìm thấy chỗ dựa bằng chính lòng yêu tiếng Việt.

b) Thời đại thi ca mà Hoài Thanh nói đến chính là giai đoạn Thơ mới từ 1932 – 1941, thay thế cho giai đoạn thơ cũ, thơ cổ điển, thơ phong kiến trước đây (Thơ ca trung đại). Thơ mới đã mở ra một thời đại thi ca hiện đại ở nước ta, đem đến một luồng sinh khí mới, một hơi thở mới và những yếu tố mới mẻ về nội dung cảm xúc và sự cách tân nghệ thuật.

Tác giả đã định nghĩa về thơ mới và phân tích tinh thần thơ mới bằng một hệ thống lập luận khoa học rõ ràng và chặt chẽ, phương pháp trình bày từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể, diễn biến lịch sử theo thời gian rõ ràng, đảm bảo tính lô gích chặt chẽ của tư duy. Cụ thể là:

– Trước hết tác giả nêu vấn đề về việc xác định cách nhìn nhận: cái tầm thường, cái nhố nhăng chẳng phải của riêng một thời đại nào và muốn hiểu tinh thần thơ cho đúng đắn, phải sánh bài hay với bài hay vậy; các thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau và muốn rõ cái đặc sắc nỗi thời phải nhìn vào cái đại thể. Tiêu chí sự nhìn nhận chính là căn cứ vào cái hay, không căn cứ vào cái dở; căn cứ vào cái đại thể chứ không căn cứ vào tiểu tiết. Đây chính là một quan niệm rất khách quan và mang tính hiện thực.

– Sau khi xác định cách nhìn nhận, Hoài Thanh đã nêu định nghĩa về tinh thần thơ mới bằng cách đối sánh giữa tinh thần thơ cũ và tinh thần thơ mới. Từ đó chỉ ra rằng: tinh thần thơ mới nằm trong cái tôi khác với tinh thần thơ cũ nằm trong cái ta.

– Nội dung của hai chữ ta và tôi được luận giải và phân tích rất rõ ràng:

+ Chữ ta thể hiện phần ý thức cộng đồng, ý thức đoàn thể trong đời sống tinh thần của con người. Nó chỉ xuất hiện vào ngày trước bởi xã hội Việt Nam ngày xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Trong văn thơ xưa, do hệ tư tưởng chính thống của thời đại khống chế, ép buộc nên cái tôi không được bộc lộ, phải giấu kín hoặc bị triệt tiêu, người ta không dám dùng đến một chữ tôi để nói chuyện với mình, hay với tất cả mọi người, không dám tự xưng tên mình, mà chỉ ẩn mình sau cái ta, một chữ có thể chỉ chung nhiều người, cá nhân con người chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước chìm đắm trong biển cả.

+ Chữ tôi là ý thức cá nhân trong đời sống tinh thần con người, nó xuất hiện và trỗi dậy trong phong trào Thơ mới và mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân. Cái tôi đấy chính là khát vọng được thành thực, là sự tự khẳng định bản ngã của nhà thơ trước cuộc đời, là sự tự ý thức về cá nhân mình trong cuộc sống xã hội. Cái tôi này đã bị kiềm chế trong bao nhiêu thế kỉ nay mới có điều kiện để giải phóng và bùng nổ mãnh liệt, nhà thơ mới có thể nói lên những điều thành thực nhất trong bản thân mình. Ban đầu, sự xuất hiện của cái tôi trên thi đàn Việt Nam thực bỡ ngỡ, như lạc loài trên đất khách; bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu… Cái tôi của các nhà thơ mới thật đáng thương, thật tội nghiệp vì nó đã đem đến cho tâm hồn họ nỗi buồn lạnh và bơ vơ, muốn thoát đi đâu cũng không được. Đây là nỗi buồn của một thế hệ thi nhân, là tất cả các bi kịch đang ngấm ngầm. Cái bị kịch ấy thể hiện ở chỗ các nhà thơ mới muốn tìm con đường thoát thân cho cuộc sống mòn mỏi, tù túng của những cuộc đời thi nhân mất nước lúc bấy giờ nhưng không được. Không thoát ra được, họ lại phải tìm về, đào sâu trong cái tôi cô đơn, nhỏ bé, tội nghiệp của mình: Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Chính bi kịch này đã làm nên âm hưởng, giọng điệu và nét đặc trưng của Thơ mới.

+ Hoài Thanh đã nhìn nhận tinh thần thơ mới trên cơ sở bối cảnh lịch sử và thực tiễn thơ ca một cách đúng đắn, khoa học. Đây là một cách nhìn tiến bộ đối với hiện tượng Thơ mới 1932 – 1941 theo quan điểm lịch sử, xuất phát từ chính con người và sự nhận thức của tác giả lúc bấy giờ. Chính vì vậy mà tính thuyết phục và sự hấp dẫn của bài nghị luận văn chương này rất cao. 

c) Lòng yêu nước của các nhà thơ mới thể hiện tập trung nhất ở lòng yêu tiếng Việt và nền thơ ca dân tộc, ở niềm say mê sáng tạo ra những giá trị văn hoá, trước hết là thơ ca: Tiếng Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tâm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng. Họ muốn làm cho tiếng nói của giống nòi đẹp hơn, giàu hơn, ngày càng trường tồn, bất diệt. Đó chính là cách để họ giải quyết tấn bi kịch trong tâm hồn mình và là một lòng yêu nước đáng trân trọng.

2. Giá trị nghệ thuật

a) Một thời đại trong thi ca là công trình phê bình văn học với cách viết nghị luận văn chương rất tài hoa, tinh tế, hấp dẫn, lập luận chặt chẽ, rõ ràng, lô gích; cách sử dụng dẫn chứng tiêu biểu, chính xác, có chọn lọc; cách chuyển ý khéo léo và cách viết liền mạch, tạo sự nối tiếp liên tục, không bị ngắt quãng, tác phẩm đã tạo nên sức thu hút mạnh mẽ đối với người đọc.

b) Nét đặc sắc trong phong cách phê bình của Hoài Thanh là lời văn đầy chất thơ. Nhờ đó tác phẩm phê bình không còn khô khan, cứng nhắc mà nhẹ nhàng, tươi mát và uyển chuyển. Chất thơ trong đoạn trích thể hiện trên những khía cạnh sau:

– Hoài Thanh sử dụng lối ví von với lời văn giàu hình ảnh, dùng nhiều so sánh, gợi nhiều liên tưởng để thay thế cho việc sử dụng các khái niệm trừu tượng, các mệnh đề lí luận vốn là những phương tiện đắc dụng trong phê bình văn học. Chẳng hạn cách nói: Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả; tiếng Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng song hồn những thế hệ qua… không những có khả năng đóng dấu vào kí ức người đọc ngay lập tức về một thông tin đúng mà còn gây được cảm xúc thẩm mỹ cho người đọc. Với cách diễn đạt thật thi vị, mềm mại và tài hoa, đầy khơi gợi, nhiều câu văn trong bài phê bình của ông tự nó có sức mạnh tách ra thành những câu châm ngôn: Cả trời thực lẫn trời mộng nao nao theo hồn ta, Thế Lữ như cùng sao đột hiện, ánh sáng chói khắp cả trời thơ… Hoài Thanh đã làm thơ trong hình thức phê bình, tạo nên những câu văn đẹp, giàu cảm xúc, đậm tính gợi hình, rất sống động, có tính mời gọi hoặc mê hoặc người thưởng thức.

– Hoài Thanh là người rất chú ý đến việc tạo nhịp điệu trong một bài phê bình. Nhịp văn xuôi được ngừng, ngắt thành các tiết tấu rất nhịp nhàng, các vế câu có sự cân xứng, các thủ pháp tạo nhịp điệu như đăng đối, trùng điệp được sử dụng rộng rãi, nhuần nhuyễn: Đời chúng ta nằm trong dòng chữ tội. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng di sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận… Nhịp điệu trong văn bản còn được tạo bởi khả năng đắp đổi về âm thanh. Các thanh bằng, thanh trắc được sử dụng một cách hài hòa và phong phú tạo tính nhạc cho lời văn. Bởi vậy, người đọc hoàn toàn không ngạc nhiên khi đọc một bài phê bình mà sức ngân của nó lại sâu lắng và gợi cảm đến thế.

c) Hoài Thanh đã từng nhiều lần nhấn mạnh quan niệm phê bình của mình: Tôi không sợ thiếu, không sợ thừa. Tôi muốn ghi hết những vui buồn của thời đại… tôi chỉ muốn hiểu cho đúng không phải cho đủ – hình sắc các hồn thơ. Tự xác định cho mình con đường như vậy, ông đã tung hứng ngòi bút một cách thênh thang, điệu nghệ và thật hả hê. Hoài Thanh đã chọn cho mình một tư cách nghệ sĩ trong phê bình. Một thời đại trong thi ca được xem là một mẫu mực đẹp đẽ, một thành tựu xuất sắc của Hoài Thanh trong thể loại nghị luận văn chương thuộc lĩnh vực phê bình văn học.

ĐỀ 270: Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của văn bản Một thời đại trong thi ca.
4 (79.49%) 117 votes