BÀI LÀM

Lòng yêu thương con cái, ước mong thế hệ sau nổi tiếp xứng đáng, phát huy truyền thống của tổ tiên, quê hương vốn là một tình cảm cao đẹp con người Việt Nam ta từ suốt bao đời nay. Bài thơ Nói với con của Y Phương – nhà thơ người dân tộc Tày, cũng nằm trong nguồn cảm hứng rộng lớn, phổ biến ấy. Bằng cách nói xúc động của riêng mình, nhà thơ đã thể hiện được tình cảm gia đình êm ấm, tình yêu quê hương tha thiết, ngọt ngào và ca ngợi truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi.

Mở đầu bài thơ là khung cảnh của một gia đình ấm cúng: 

Chân phải bước tới cha    
Chân trái bước tới mẹ       
Một bước chạm tiếng nói   
Hai bước tới tới tiếng cười.

Với cách diễn đạt riêng, độc đáo của người miền núi: nói bằng những hình ảnh cụ thể: chân phải, chân trái, tiếng nói, tiếng cười, nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh gia đình êm ấm, quấn quýt. Đứa trẻ đang tập đi, đang bị bộ tập nói. Bên trái là mẹ, bên phải là cha. Cha mẹ luôn giang rộng vòng tay, chăm chút, đón nhận từng bước đi, tiếng cười, giọng nói của con. Điệp ngữ “bước tới” và động từ “chạm” đã làm nổi bật cái hồn bức tranh về một gia đình hạnh phúc: đôi vợ chồng trẻ với đứa con thơ đầu lòng. Cha mẹ luôn nhớ về ngày cưới – “ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”. Từ đó, người cha muốn nói với con một điều thật giản dị: gia đình chính là cái nôi êm, tổ ấm để con lớn khôn và trưởng thành.

Không chỉ có gia đình yên ấm mà đứa con còn được trưởng thành trong cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của người đồng mình:

Người đồng mình yêu lắm con ơi 
Đan lờ cài nan hoa                      
Vách nhà ken câu hát.                  

“Người đồng mình” – người vùng mình, miền mình, đây là một cách nói mộc mạc, mang tính địa phương của người dân tộc Tày nhưng lại giàu tính biểu cảm. Họ là những người cần cù trong lao động. Và chính trong lao động, họ lại khẳng định mình là con người tài hoa. Dẫu còn gian khổ, vất vả nhưng những con người này vẫn luôn vui vẻ, lạc quan. Họ đan lờ để bắt cá không chỉ bằng nan trúc, nan tre mà dưới bàn tay của những người Tày này, nó đã trở thành “nan hoa”. Vách nhà không chỉ được ken bằng gỗ mà còn được ken bằng những câu hát si, hát then, hát lượn. Những động từ: đan, cài, ken vừa miêu tả cụ thể, vừa nói lên sự gắn bó, đoàn kết, quấn quýt của người đồng mình.

Thiên nhiên, rừng núi thì thơ mộng, nghĩa tình: 

Rừng cho hoa                            
Con đường cho những tấm lòng.

Rừng đâu chỉ cho gỗ, cho lâm sản quý mà còn “cho hoa”. Con đường không chỉ để đi ngược, về xuôi mà còn “cho những tấm lòng” nhân hậu, bao dung. Từng ngày con đã lớn lên, có cha mẹ chờ mong, nâng niu, chăm sóc; có thiên nhiên thơ mộng, có cuộc sống lao động, vất vả, tươi vui của người đồng mình. Nói với con những điều này, người cha mong con hiểu những tình cảm, cội nguồn đã sinh dưỡng con để con thêm yêu cuộc sống.

Không chỉ nói cho con biết về cội nguồn sinh dưỡng, người cha còn muốn nói với con về những đức tính tốt đẹp của người đồng mình:

Người đồng mình thương lắm con ơi. 
Cao đo nỗi buồn                                  
Xa nuôi chí lớn.                                   

“Người đồng mình thương lắm”, đó là cách nói mộc mạc nhưng chứa đựng biết bao ân tình. Họ luôn thương yêu, đùm bọc lẫn nhau và chính tình thương ấy đã làm nên sức mạnh để những con người miền núi này có thể vượt qua mọi gian khổ. 

Hai câu thơ: “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn” đối xứng nhau đã diễn tả thật mạnh mẽ chí khí của người đồng mình: sống lam lũ, nghèo đói, cực nhọc nhưng lại có chí lớn. Các từ ngữ: cao đo, xa nuôi đã thể hiện một thái độ, một phương châm ứng xử cao quý, một bản lĩnh sống riêng của bà con dân tộc Tày.

Họ sống vất vả nhưng rất đáng tự hào: 

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh           
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối                                  
Lên thác, xuống ghềnh                                     
Không lo cực nhọc.                                           

Họ không chê bai, phản bội quê hương mà luôn chung thuỷ, nghĩa tình. Điệp từ: “không chê” – “không chê” – “không lo” đã thể hiện rõ điều đó. Còn thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” cùng với lối so sánh bằng hình ảnh cụ thể đã cho ta thấy được lối sống khoáng đạt, hồn nhiên, mạnh mẽ của người đồng mình. Từ đó, người cha mong muốn con phải có nghĩa tình, chung thuỷ với quê hương, biết vượt qua gian nan, thử thách bằng ý chí, niềm tin của mình. Đây là lời người cha tâm tình với con và cũng là lời dạy con bài học về đạo lý làm người.

Tiếp theo, người cha nhấn mạnh về truyền thống của người đồng mình:

Người đồng mình thô sơ da thịt                       
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con                          
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương 
Còn quê hương thì làm phong tục.                    

Họ có thể “thô sơ da thịt”, ăn mặc giản dị, áo chàm, khăn piêu, sống chất phác, thật thà nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí và mong ước xây dựng quê hương. Bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại của mình, họ đã làm nên truyền thống quê hương với những phong tục, tập quán tốt đẹp. Vì là “người đồng mình” nên cha muốn con phải luôn tự hào về truyền thống quê mình: 

Con ơi tuy thô sơ da thịt     
Lên đường                           
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.                             

Lời cuối nói với con càng trở nên thắm thiết. Cha dặn dò Con cần tự tin, vững bước trên đường đời, không bao giờ được sống tầm thường, nhỏ bé, ích kỉ mà phải biết giữ lấy cốt cách mộc mạc, giản dị của người lao động. Hai tiếng “nghe con” kết thúc bài thơ nghe sao thân thương, trìu mến. Qua lời dặn dò, nhắc nhở chí tình này, ta thấy được tấm lòng yêu thương con tha thiết và sự kì vọng lớn lao vào đứa con thân yêu của người cha. Cha đã vun đắp cho con những tình cảm tốt đẹp, cho con một hành trang quý để con có thể sẵn sàng tung cánh bay đi khắp mọi nơi.

Bằng thể thơ tự do, giọng thơ nhỏ nhẹ, chân tình, thiết tha, trìu mến. Hình ảnh thơ vừa cụ thể, mộc mạc, cô đọng, vừa phong phú, giàu chất thơ, Y Phương đã thể hiện được tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc mỗi người tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.

  Nguồn website giaibai5s.com     

Đề 25: Phân tích bài thơ “Nói với con” của Y Phương
Đánh giá bài viết