Đề 25 – Phân tích bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du.

BÀI LÀM 1

Nhắc đến Nguyễn Du người ta thường nghĩ đến thiên cổ tình thư: Truyện Kiều của ông. Điều ấy có lí do của nó. Truyện Kiều là một thành công kiệt xuất của thơ ca tiếng Việt. Nhưng bên cạnh Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du còn làm rất nhiều thơ chữ Hán có giá trị – cũng vó xé, cũng nhức nhối lòng người không khác gì khúc nam âm tuyệt xướng ấy. Độc Tiểu Thanh kí là bài thơ chữ Hán trác tuyệt, tinh hoa diệu bút của đại thi hào Nguyễn Du, được xếp trong Thanh Hiên thi Tập. Bài thơ đã bộc lộ một cách sâu sắc cái nhìn cảm thông của tác giả trước những thân phận tài hoa mà bạc mệnh trong xã hội cũ và dường như đó còn là bức thông điệp tình thương, nỗi nhói buốt can tràng của muôn đời.

Ôi Tiểu Thanh, nàng là ai vậy? Con tạo hóa vốn yêu thương tài sắc, nàng đã biết thế hay chưa? Người khôn thì hay gian truân, chuyện đời khéo trò quanh quẩn. Chuyện của đời nàng sau nhiều uẩn khúc phải chăng cũng là chuyện của bao người tài tình cho lắm cho trời đất ghen trong xã hội phong kiến kéo dài hàng mấy trăm, mấy nghìn năm xưa. Xã hội ấy đâu có dung nổi những người tài sắc, đa cảm khiến những người như Đỗ Thập Nương phải làm kĩ nữ, những Thúy Kiều phải bán mình. Truân chuyên lận đận… hay như Lâm Đại Ngọc của Tào Tuyết Cần – than ôi cái đẹp thì mong manh và yểu điệu, tài sắc thì dễ bị dập vùi. Chắc nàng Tiểu Thanh phải có nét mặt sầu rầu như Bao Tự. Nàng sống vào đầu đời Minh – tức là từ năm 1368 đến năm 1644. Nàng là người tài sắc, có chồng nhưng hẩm hiu thay chỉ là vợ lẽ. Tài sắc của nàng bị vợ cả ghen tuông nên quyết đọa đầy cho hả dạ. Nàng bị bắt phải sống một mình trên núi Cô Sơn cạnh Tây Hồ, chẳng bao lâu đau buồn mà chết, bấy giờ mới mười tám tuổi. Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương, câu thơ viết về Đạm Tiên ấy không chỉ vận vào nàng Kiều mà còn là chuyện của những người con gái có tài sắc mà bị ghen ghét, đến nỗi văn chương cũng bị vạ lây như nàng Tiểu Thanh nước Trung Hoa. Khi Tiểu Thanh còn sống, nàng làm rất nhiều thơ bộc bạch những lời gan ruột – chắc thơ cũng như người, hay những thấm đẫm nỗi buồn, uất hận – nhưng khi nàng chết người vợ cả chưa tắt lửa hờn ghen nên tìm lục đốt thơ nàng hòng xóa sạch dấu vết. Sau khi nàng vĩnh viễn không còn làm thơ trên cõi trần này nữa, nhiều người thương tiếc bởi trong đống tro tàn chỉ còn sót lại vài bài làm thành một tập thơ mà người đời gọi là phần dư cảo.

Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
                                             (Truyện Kiều)

Phải chăng đó là giọt nước mắt xót thương của thi nhân nhỏ xuống số phận bi thảm của Đạm Tiên, của Kiều, của Long Thành cầm giả ca của Ngô Gia đệ cựu ca cơ và bây giờ là Tiểu Thanh? Giọt nước mắt ấy là giọt nước mắt của mỗi đồng cảm đặc biệt mang những nỗi ám ảnh, ngậm ngùi về thân phận con người. Bài thơ thất ngôn bát cú xinh xắn Độc Tiểu Thanh lý đã bộc lộ những cảm xúc rất trần gian, rất con người tức là rất nhân văn của một nhà thơ lớn Việt Nam sau khi đọc phần dư cảo ấy. Bài thơ là cả một biển trời tình thương và nếu muốn lấy dẫn chứng về cách viết thơ hàm súc dư ba thì không thể không coi bài thơ là một mẫu mực, Đọc xong bài thơ rồi, cảm xúc trong lòng ta vẫn còn vang ngân, khắc khoải, day dứt. Sống ở trên đời có được thứ tình cảm cao thượng ấy thật quý vậy thay!

Từ đầu đời Minh, cái lúc nàng Tiểu Thanh sống và chết, cái lúc nàng quần quại trong cái ghen kiểu Hoạn Thư tàn nhẫn đến thế này, Nguyễn Du không phải đứng trước mộ nàng mà chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ. Theo nghiên cứu của nhà phê bình Tượng Chính, khi đi sứ ở Trung Quốc năm 1838, Nguyễn Du không vượt qua sông Trường Giang, không đến Tây Hồ nơi có núi Cô Sơn, mộ nàng Tiểu Thanh, mà xuôi thuyền theo dòng Trường Giang về Võ Xương – khi Nguyễn Du viếng di chỉ của một người mệnh bạc, thời gian đã hơn ba trăm năm. Ba trăm năm thật quá đủ để một người bị lãng quên, đủ để nương dâu thành bãi biển. Nhưng đối với cả hai con người ấy lại khác, họ có mối đồng bệnh tương lân. Một người con gái như Tiểu Thanh lẽ nào lại không lưu lại trong lòng hậu thế những nỗi day dứt dằn vặt khổ đau? Một người có trái tim lớn Nguyễn Du lẽ nào lại dửng dưng, thờ ơ trước lời xưa của một hồn đau vọng về? Và Nguyễn Du đã viết Độc Tiểu Thanh ký với tất cả tấm lòng. Phải, trên hết là tấm lòng, sau đó mới là dụng công nghệ thuật. Bởi lấy tấm lòng để hiểu tấm lòng, mới thấu được những lòng đau. Mở đầu bài thơ, Nguyễn Du viết:

Tây Hồ hoa uyển tận thành thư.
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

Dịch giả Vũ Tam Tập dịch là:

Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.

Nếu Thúy Kiều đến với Đạm Tiên trước nấm đất sét sè sè bên đường, thì ở bài thơ này, nhà thơ đến với Tiểu Thanh đáng thương trước hai di vật: cái gò hoang tức núi Cô Sơn, nơi trước đây nàng bị vợ cả hắt hủi và mảnh giấy tàn tức những bài thơ não nùng tâm can sót lại. Từ hai di vật này, Nguyễn Du đã phi lộ và tạo cho mình nguồn cảm hứng sâu xa. Xưa viếng Đạm Tiên, nay viếng Tiểu Thanh – cùng một lứa bên trời thân cận. Mộng Liên Đường chủ nhân đã nói đúng: Trong trời đất đã có người tài tình tuyệt thế, tất thế nào cũng có việc khảm kha bất bình. Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê, đó là cái căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy. Tài thơ của Tiểu Thanh thời ấy có ai biết đến, có ai ngưỡng mộ ngợi khen, hay phải chịu lụi tàn bởi ngọn lửa bất nhân tình: tình của Tiểu Thanh thời ấy, có được đền đáp trọn vẹn hay không, hay là phải gánh chịu cái ghen ngút trời. Cái căn nguyên ấy thật xót xa. Hồ Tây đẹp là như vậy, giờ Tiểu Thanh chết rồi, bên cạnh mồ của nàng, núi Cô Sơn trở nên lạnh lẽo, hoang vắng và tro tàn. Cảnh đẹp thì lộng lẫy, sinh động, có sức sống, nay trở thành gò hoang tức là với con người chôn sâu vào huyệt lộ – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Thế là cuộc sống đã đến hồi tàn tạ, thảm khốc, héo hon, trớ trêu và nghịch cảnh. Thế đấy, sự thay đổi vẫn diễn ra trong cuộc sống, cái gì rồi cũng lụi tàn cùng với bụi thời gian sắc úa màu phai. Đọc di cảo của Tiểu Thanh, nhà thơ càng nhận ra cái quy luật biến thiên ấy của đời sống. Nhà thơ trước đó đã nhận ra cái quy luật phũ phàng ấy rồi, từ sự chiêm nghiệm của chính bản thân và đời mình, bởi vậy mà tác giả đã viết một cách đầy thương tâm:

Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Ba trăm năm sau, cùng với biết bao dâu bể, tất cả những gì nhớ về con người ấy hầu như bị hủy diệt tàn phá. Đến hôm nay con người tài sắc một thời ấy chỉ lại có một tập thơ nhỏ. Nguyễn Du chỉ còn được biết về nàng, được viếng hồn nàng, thổn thức tỏ lòng thương cảm vô bờ qua việc đọc tập thơ trước cửa sổ. Trong những câu thơ vào đề, Nguyễn Du đã tỏ rõ tấm lòng đồng cảm của mình về một đời người, về cuộc đời chung. Cho nên nói về Tiểu Thanh kí thật ra là Nguyễn Du nói về Tiểu Thanh, nói về con người chứ không phải nói về nghệ thuật. Hai câu thực, nhà thơ tiếp tục suy tưởng, thổn thức về thân phận và tài hoa của nàng Tiểu Thanh.

Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

Nói đến son phấn là nói đến nhan sắc, nói văn chương là nói đến cái tài. Son phấn thì làm gì có thân nhưng Nguyễn Du đã tạo hồn, tạo thần cho nó để rồi cũng biết hận biết đau nỗi đau bị vùi dập. Nói son phấn có thần hẳn Nguyễn Du muốn nói đến giá trị cao quý, bất tử của nhan sắc người đẹp. Phải, nhan sắc – cái đẹp chính là giá trị quý báu của cuộc sống, nó có sức sống bất tử vì thế mà ba trăm năm sau cho dù hoa uyển có tàn tạ, hồ Tây có hoang phế, núi Cô Sơn có trở thành gò đống xấu xí thì nhan sắc của Tiểu Thanh vẫn không bị lãng quên, ít nhất là nó gây niềm thương cảm ngậm ngùi trong lòng người. Chi phấn hữu thần riêng một ý thơ này đủ để khẳng định con người nhân đạo chủ nghĩa đáng quý trong tâm hồn, trái tim Nguyễn Du. Trong xã hội phong kiến với hệ tư tưởng phong kiến, mấy ai dám nghĩ như vậy về chi phần, về vẻ đẹp của người phụ nữ. Son phấn là sắc đẹp giai nhân. Còn văn chương là nói đến văn tài. Sắc tài là vậy nhưng làm sao tránh khỏi tài mệnh tương đối, tạo hóa trêu ngươi, thậm chí chính tài sắc lại là nguyên nhân của tai họa. Cho nên con người bị vùi dập, chà đạp một cách tàn nhẫn: 

Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần.

Văn chương là vật vô tri, làm gì có số mệnh, định mệnh. Ấy vậy mà đối với Nguyễn Du văn chương cũng có mệnh, cũng biết vương vấn, cũng biết lụy trước những nỗi oan khuất của kẻ tài hoa. Vợ cả đốt thơ Tiểu Thanh. Thế là văn chương cùng với con người bị nguyền rủa, bị căm thù, bị tàn phá, tiêu hủy. Vậy thì văn chương cũng hữu mệnh như con người – thật là một buổi chiều thu tê tái – buổi chiều của xã hội phong kiến ở Việt Nam, ở Trung Quốc phản ánh trong tâm hồn Nguyễn Du khi tất cả những cái gì đẹp đẽ cao khiết đều bị dập vùi. Hai câu thực đã khẳng định lòng cảm thương sâu sắc và nỗi oán hận, nỗi uất ức của ông đối với thời đại. Bản chất ấy là bản chất nghệ sĩ nhưng không phải là nghệ sĩ nào cũng có được. Son phấn có thần chôn vẫn hận – Văn chương không mệnh đốt còn vương – một ý nghĩ như thế thật là táo bạo, ngay cả đến thời đại chúng ta.

Hai câu luận tiếp tục khai triển niềm thương cảm của Nguyễn Du đối với thân phận bé nhỏ của con người. Một câu hỏi khắc khoải, quan hoài vang lên đầy xót xa:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.

Vẫn là cái hờn, cái hận của Tiểu Thanh nhưng đã nằm trong cái hận của muôn đời, muôn người – một cái hận triền miên dài đến nghìn năm day dứt mãi khôn nguôi. Cái nỗi đau nhân tình thế thái, cái nỗi hận cổ kim từ xưa đến nay ấy thật khó mà hỏi trời. Trời thăm thẳm, trời cao xa quá, tận trên chín tầng mây làm sao hỏi được đây. Nhà thơ đã từ cái hận của muôn đời mà thấu hiểu cái hận của Tiểu Thanh, đã dồn cái hận của cổ kim vào cái hận của nàng, bởi thế cái hận trở nên có sức mạnh, có sức lay động lòng người. Và không hỏi được, không lí giải được lại càng thêm hận khiến cái hận trở nên thấm thía. Với những thanh trắc (cổ, hận, sự, vấn), Nguyễn Du đã diễn tả một cách đầy bi phẫn nỗi đau của những con người tài hoa bạc mệnh. Tác giả đau đớn, căm giận trước sự thất bại của cái đẹp, cái thiện, trước sự thắng thế của cái ác và do đó lời thơ đã tố cáo mạnh mẽ cái chế độ phong kiến hà khắc với những khuôn phép bất nhân (chữ dùng của Xuân Diệu) chà đạp con người, đặc biệt là con người tài sắc, yếu đuối. Phong vận kì oan ngã tự cư – cái án phong lưu khách tự mang. Cái án phong lưu là án gì? Phải chăng đó là cái án của con người tài sắc. Là con người tài sắc mà phải chịu cái án ấy – cái án bị đọa đầy, bị hắt hủi, bị hành hạ cho đến chết thì thật thương tâm. Khách ở đây là ai? Sao cái án ấy khách lại tự mang vào mình? Khách tự mang là do lòng cảm cựu ai xui thương mướn hay là do một nguyên do nào khác. Không, đó là cách tự vận vào mình một cách cao cả, đó là thông lụy của bọn tài tử trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy. Nguyễn Du cũng là một trong những người có tình hữu ái nhất phiên tài tiên cổ lụy bởi đó tự coi mình đồng hội đồng thuyền với kẻ mang nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Nhà thơ thông cảm với Tiểu Thanh, bênh vực Tiểu Thanh, uất ức mà khóc cho Tiểu Thanh.

Đau đớn trước nỗi oan lạ kì của Tiểu Thanh, xót xa trước sự quên lãng của người đời, Nguyễn Du khóc cho Tiểu Thanh – một người con gái hồng nhan đa truân của hơn ba trăm năm về trước và đặt câu hỏi lớn cho ba trăm năm sau: 

Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)

Hai câu kết, Nguyễn Du chuyển mạch cảm xúc khóc mình, ấy vậy mà không hề lạc điệu, rời rạc mà vẫn phù hợp, vẫn đảm bảo bài thơ là một chỉnh thế. Từ sự xót thương kiếp tài hoa mệnh bạc của Tiểu Thanh, từ tâm sự cùng

hội cùng thuyền tự đặt mình vào nỗi oan khiên đó, tác giả liên hệ đến bản thân mình, thương người hóa ra tự thương mình và băn khoăn không biết sau này ba trăm lẻ nữa có ai còn nhớ đến mình, khóc cho mình như khóc cho Tiểu Thanh không? Vì thế khóc cho người rồi khóc cho mình là phù hợp với mạch cảm xúc của Nguyễn Du. Ba trăm năm không hoàn toàn là một con số chuẩn xác.

Hai câu kết đã hé mở một thế giới riêng của một con người mà từ trước ta ít để ý: Đó là con người Tố Như với những băn khoăn, trăn trở, riêng tây. Nguyễn Du không hề nói đến Tố Như, bỗng nhiên nhận câu chuyện Tiểu Thanh, lại tự hỏi một câu vớ vẩn… Một tấm lòng vẫn giấu che, bỗng lộ trong một phút giây, chênh nhẹ bức mành, mà ta trông được cả một thế giới còn chưa nói. Dường như Nguyễn Du muốn đưa ra một lời dự cảm, một lời tiên tri: Hơn ba trăm năm sau chắc còn có người khóc mình có nghĩa là phải khóc thương cho số phận chịu nhiều đau khổ, nhân loại vẫn còn những con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Đó là một nỗi buồn sâu lắng về cuộc đời cũng là một triết lý sâu sắc về thuyết tài mệnh tương đố. Ông thương cho người xưa, thương cho chính mình và thương cho cả người sau phải khóc cho mình nữa. Con mắt trông thấy sáu cõi, hay tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du là như vậy đó.

Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí đã cho thấy tấm lòng nhân hậu, cảm thông của Nguyễn Du mênh mông sâu nặng biết nhường nào. Ông có tình thương bao la với những kiếp người tài hoa, bạc mệnh dù là người Việt Nam hay Trung Quốc. Rồi ông tự vận vào mình cái án phong lưu để mà tự đau, tự thương cho mình bơ vơ, không tri âm, tri kỉ trước cõi đời. Trong văn chương thời trung đại, quan niệm vô ngã, phi ngã chi phối dễ gì có nhiều người biết thương mình, thương một cách cực độ như Nguyễn Du. Nguyễn Du luôn sống mãi trong lòng người với tinh thần nhân đạo cao cả, xứng đáng là nhà nhân đạo lớn.

Bài của Nguyễn Nhật Huy – PTTH Quảng Xương I

BÀI LÀM 2

Mở đầu bài thơ là tiếng thở dài bị thiết cho thế cục, nhân sinh. Sức khái quát triết học của câu thơ lớn:

Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang.

Xưa: cảnh đẹp, nay: gò hoang, sự biến thiên dâu bể thật kinh hoàng. Có biến thành không, rực rỡ là thế, nay hoang phế, điêu tàn, cuộc đời thật là vô nghĩa! Sự đối lập của hai trạng thái tồn tại và phi tồn tại diễn ra như một thứ vòng quay vô thức mà nghiệt ngã không cùng. Ở đây, Nguyễn Du đã gặp tác giả Cung oán ngâm trong cái nhìn vô cùng chua chát. Nhưng, góc độ cận hiện thực của bài thơ này nổi cộm lên nhằm riêng vào một đối tượng: cái đẹp. Vì trong cái quy luật biến có thành không, cái đẹp bị tàn phá, bị tiến công dữ dội nhất. Sự biến dạng triệt để này được diễn đạt xót xa qua một từ trong nguyên bản: tận.

Tây Hồ hoa uyển tận thành khư.

Tận: biến đổi hết, thay đổi hết, không còn sót lại một dấu vết gì. Hiện trạng xảy ra ở một địa điểm: Hồ Tây, nhưng có ý nghĩa về mặt không gian không tự đóng khung, thu hẹp. Nó diễn ra ở tất cả, ở mọi nơi. Và ở tất cả mọi nơi ấy, không gian (nhất là cái đẹp, không trụ nổi trước thời gian. Không gian thì chỉ là khoảng khắc, chỉ là như giấc mộng, còn thời gian mới không cùng. Nó vô thủy, vô chung. Nó hòa tan tất cả vào cái dòng chảy vô hình. Câu thơ không chỉ là một bức tranh buồn, ở đó còn có dấu vết tâm linh của người họa sĩ. Cũng như Bà huyện Thanh Quan khi gọi cuộc dâu bể, tang thương là cuộc hi trường (Tạo hóa gây chi cuộc hí trường). Một nguyên tắc trong sự dồn nén của thơ luật Đường là ý ở ngoài trời (ý tại ngôn ngoại). Nguyên tắc ấy được thể hiện một cách dung dị, tự nhiên như một lời nói thường, nhưng nó vừa là hình ảnh cuộc đời, vừa là chân dung tâm trạng của nhà thơ, là tiếng thở dài bị thiết vì không xuôi bất lực. Ngay hình ảnh cuộc đời ở đây cũng đầy sự liên tưởng. Nó không khép kín mà mở ra. Nó là cuộc đời hay sân khấu (hí trường)? Có lẽ cả hai, và chính sự liên tưởng làm nhòe đi các đường biên khái niệm này mà so với các thể loại, thơ đi vào tâm trí người đọc rất mạnh, rất sâu. Tuy không chính xác vì nó mơ hồ hơn, thơ có thể trò chuyện với tâm hồn như một thứ tri âm, chiêm nghiệm.

Từ cái đẹp bị tàn phá, Nguyễn Du đi vào một nhân chứng điển hình.

Gạt đi tất cả mọi thứ tro bụi, mọi thứ phong trần, từ cái nền đổ nát trên đây, nhà thơ đang nâng cầm ở trên tay một mảnh vụn cuộc đời: Nhất chỉ thư (một tập sách). Tập sách ấy có một cái tên (Tiểu Thanh kí) bởi nó kể về một số phận, một người con gái nhan sắc và tài hoa. Tập sách ấy là hoàn chỉnh, vẹn nguyên, nhưng nhân vật được kể trong truyện đã phải sống cuộc đời dang dở, không vẹn nguyên. Đó là chứng tích của một thời, một thời đầy biến thiên (Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang) và một đời những má hồng phận bạc.

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.

Câu dịch thơ mới chỉ là lược ý. So sánh với nguyên bản chữ Hán của Nguyễn Du là Độc điếu song tiền nhất chi thư, nó đã đánh mất đi hai chữ rất quan trọng: chữ nhất trong nhất chỉ thư và chữ độc trong độc điếu. Thực ra, nhất là một, mà độc cũng là một, nhưng nếu nhất là số từ chỉ lượng thì độc là trạng từ chỉ tâm thế nhà thơ. Bởi vậy bản dịch nghĩa trung thành hơn:

Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ.

(Tổng hợp cả hai câu một và hai, có ý kiến đề nghị một cách dịch nghĩa khác như sau: Vườn hoa ở Tây Hồ đã thành gò hoang cả rồi. Một mình xót thương nàng khi đọc một tập sách trước song cửa).

Như vậy, nếu liên kết cả hai câu thì ba chữ: tận (ở câu một) và độc, nhất (ở câu hai) tạo được thế chân vạc. Đó là ba cái trụ cầu, trên đó bắc những nhịp thời gian đuổi theo nhau bất tận. Tốc độ xô đẩy của thời gian thật khủng khiếp nặng nề (câu một). Còn sức chống đỡ của con người (người làm thơ: nhất chỉ thư, người đọc thơ: độc điếu) thật là mảnh mai, vô nghĩa. Về một phương diện nào đó, dường như số phận hai con người không quen biết ấy vô tình đến với nhau, và từ phút trị ngộ này đã hình thành một trận tuyến đối mặt với sự dâu bể, biến thiên. Nhưng lực lượng liên minh này thật yếu ớt cô đơn, bởi đều là đại diện cho thời đại mình, họ là những nhân chứng của sự tàn phai, lạc điệu. Cuốn sách kia là dấu tích của cái thời cách Nguyễn đến ba trăm năm, còn chính nhà thờ họ Nguyễn nọ, đại diện cho một thời đang sống, nhưng cũng chỉ có một mình. Cái ý một mình này không chỉ một lần suy tư trong độc điếu, mà ngay trong câu kết bài thơ Người đời ai khóc Tố Như chăng? nhà thơ vẫn khắc khoải, băn khoăn như thế! Nhưng chính là nhờ vào hệ thống ngôn từ tự thể hiện này mà giữa nhà thơ và người đã khuất gần gũi biết chừng nào! Thư không chỉ là sách mà là hiện diện của một con người. Và cả hai đang âm thầm lắng nghe nhau trong đàm tâm, trò chuyện. Khóc cho cái đẹp là một tài hoa, vậy cái sự chỉ là một mình mình biết, một mình mình hay. Khóc Đỗ Phủ, Nguyễn Du cũng viết:

Công tin thị danh sư bách thế
Độc bị dị vực kí cổ phần.       

(Trong khi mọi người thèm khát cái thi danh làm thầy thơ trăm đời của ông, chỉ có mình tôi thương cho nấm mồ của ông gửi nơi đất khách). Trước sự đồng điệu, thành tâm của độc điều ấy, cái mảnh giấy tàn của nhất chỉ thư tưởng cũng như đang cựa mình thức giấc sau một giấc ngủ nghìn thu: Thấy hiu hiu gió thì hay chị về (Truyện Kiều). Sự ứng nghiệm, giao cảm giữa âm và dương, xưa và nay, muôn đời là vậy.

Như thế là, hai câu đề đã mở ra một thứ ngoại cảnh và tâm cảnh. Đó là cái khoảnh khắc nghĩ suy, cảm nhận khi gặp gỡ một con người, một con người xa nhưng không lạ: nàng Tiểu Thanh xấu số. Nhưng chứng tích của một thời và một đời là nhất chi thư kia có ý nghĩa thông điệp như thế nào với hôm nay và mai hậu? Thì đó chính là nhiệm vụ then chốt của hai câu thực.

Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương.

Nội dung, hàm nghĩa của hai câu thực này hiện đang tồn tại những cách hiểu khác nhau. Ngoài cách hiểu: Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết. Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở, (Sách giáo khoa Ngữ Văn 10), còn một cách hiểu khác: Son phấn như có thần, sau khi chết, người ta còn thương tiếc. Văn chương còn có số mệnh gì mà làm cho người ta phải bận lòng đến những bài thơ còn sót lại sau khi đốt (bản của Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh). Nhưng dù cách hiểu có khác nhau thì cũng chỉ là tiểu dị, còn trên tổng thể vẫn nhất trí, vẫn đại đồng về phương diện văn bản hình tượng thơ. Cách hiểu thống nhất là: với son phấn và văn chương, không hề có cái chết. Hoặc cái chết chưa phải là sự kết thúc, không bao giờ là dấu chấm cuối cùng. Như thế là cái đẹp hình thể (nhan sắc) và cái đẹp tâm hồn (văn chương) cũng có một vận mệnh, cùng đi đến sự trường tồn, vĩnh hằng, vĩnh cửu. (Chứng cớ là cái phần còn lại của nó kia vẫn được người đời nhắc nhở, linh hồn của nó vẫn xanh tươi: Thác là thể phách hồn là tinh anh. Nguyên tắc đối xứng của thi pháp Đường thi dẫn đến sự cặp đôi, song hành của hai đối tượng: son phấn và văn chương (người quốc sắc và kẻ thiên tài). Đó là giai nhân và tài tử, hai lớp người khác giới trong xã hội thượng lưu. Đó cũng là hai phẩm chất đặc trưng cho tuổi trẻ, hai vẻ đẹp của nhân sinh. Nguyễn Du khác Tiểu Thanh là khóc cho một con người mang cả hai vẻ đẹp ấy. Đó chính là môtip hình tượng có tính chất hệ thống của Nguyễn Du, từ Tiểu Thanh đến Thúy Kiều – người gầy đàn ở Long Thành ngày trước.

Ta nhớ lúc trẻ từng có gặp          
Bên bờ hồ Giám trong đêm tiệ c
Bấy giờ ba bảy tuổi đang xuân   
Áo hồng lấp lánh đào in mặt       
Vẻ ngây má ửng dễ mê người       
Dưới ngón năm cung đàn réo rắt.
                              (Long Thành cầm giả ca)

Thiên hạ vô tình, tạo hóa vô tình, một lần nữa hiện ra cái quy luật: sự chà đạp không hề thương tiếc đối với tài hoa. Nhưng lạ thay là dù có bị bức tử, sự oan ức của cái đẹp, của tài hoa không dễ gì bị hủy diệt. Cho dù đó chỉ là một sự cảm thông kiểu như: Hương hoa bay thấu vào trong ngục; Kể với tù nhân nỗi bất bình. Cũng như thế, tiếng thơ của người đàn bà nhan sắc tài hoa một thời gian kia làm sao mà mất được dù là một triều đại vàng son nào đó không còn. Cái thần của son phấn, cái mệnh của văn chương kì diệu và khác thường phải chăng chính là ở chỗ này? Và cũng chính vì thế mà tài mệnh tương đố, những số phận ấy không tránh được sự ghét ghen của tạo hóa đã mắc vào một thứ phong vận kì oan! Đây chính là hai mặt của một hiện tượng, một mâu thuẫn mà thống nhất giữa hữu hạn và trường tồn, giữa vật chất và tinh thần của chính nó:

Anh hoa phát tiết ra ngoài
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa,.

Anh hoa và tài hoa là hai từ đồng nghĩa. Anh hoa vốn nghĩa là vẻ đẹp của cỏ cây, nghĩa rộng là cái tinh anh, tốt đẹp của người nhìn thấy ở bên ngoài. Như vậy. Cái khái niệm son phấn trong câu Son phấn có thần chôn vẫn hận không nên chỉ hiểu là vẻ đẹp trời cho về nhan sắc thông thường. Ở đó còn ẩn chứa một sự thông tuệ, nhất là cung đàn bạc mệnh của Thúy Kiều chính là một sự giao cảm lịch sử, một tổng kết nhiều thời đại về thân kiếp đọa đày của người phụ nữ chứ đâu chỉ là một thứ tài năng. Tài ấy đi với tình ấy, hội tụ hai vẻ đẹp của hình thức và nội dung. Những bài thơ ứng tác hai lần – lần gặp Đạm Tiên và sau đó trong giấc mơ và Đạm Tiên đánh giá: Giá đành tú khẩu cẩm tân khác thường chính là từ cảm nhận tổng hợp mà ta vừa nói trên đây. Còn tiếng đàn của Kiều chẳng hạn vì sao đã một lần cho Kim Trọng không yên? Phải chăng ở sự đa nghĩa, ở tính hai tầng giữa cái biểu hiện (tiếng đàn) và cái được thể hiện (tâm hồn)? Như vậy thì son phấn và tài hoa, mà tài hoa ở Tiểu Thanh là văn chương là những vẻ đẹp người không bị cô lập hóa. Cả hai gắn kết với nhau tạo nên một cực điểm phía bên này, còn phúc phận, thân kiếp như một thứ thẩm nhỡn tiền ở đối cực (cũng là cực điểm) phía bên kia. Hai phía ấy, sự định hướng đầu nghịch lí ấy diễn ra đồng thời như một định mệnh. Đó là tổng kết của Nguyễn Du từ một oan trái xót thương, từ một cuộc đời mà nhà thơ đang cầm trên tay tiếng nói tri âm và đang độc điều trước phần mộ tinh thần của người quá cố. Về phương diện cấu trúc toàn bài, bốn câu đầu mang tính độc lập tương đối. Nó nói về sự hủy hoại, sự tàn phai từ một nhân chứng là mảnh giấy tàn bên song cửa. Còn son phấn có thần…. là cảm nghĩ của Nguyễn Du trước nấm mồ của sắc, tài bạc phận. Thực ra, ý thì cũng không phải là mới. Về các cuộc tang thương, Nguyễn Trãi, một con người sống hết mình với thời đại nhưng rốt cuộc không phải xót xa:

Trăm năm trong cuộc nhân sinh
Người như cây có thân hình nát tan
Hết lưu lạc đến bị hoan
Tốt tươi khô héo tuần hoàn đổi thay
Núi gò đài các đó đây
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh.
                                       (Bài ca Côn Sơn)

Đề 25 – Phân tích bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du.
Đánh giá bài viết