BÀI LÀM 

1. Bài thơ được viết như một dòng cảm xúc hối hả tuôn trào, nhưng vẫn tuân theo một bố cục khá rõ ràng, thể hiện mạch triết luận sâu sắc và chặt chẽ. Chúng ta có thể tìm thấy bài thơ được bố cục thành hai phần qua nội dung, hình tượng và sự chuyển đổi lối xưng hô. Hai phần này có sự chuyển tiếp khá nhuần nhị, tự nhiên về cảm xúc song lại chặt chẽ, logic về mặt luận lí:

– Phần thứ nhất (Từ đầu đến “… Mùa chưa ngả chiều hôm”): Thi sĩ xưng “tôi”, thể hiện sự bộc bạch với mọi người, với cuộc đời. Nội dung cảm xúc là niềm ngất ngây trước cảnh sắc trần gian đang bày ra trước mắt. Nội dung triết luận là việc “lập thuyết”; trình bày những lí lẽ vì sao phải sống “vội vàng”, mà chủ yếu là xuất phát từ nhận thức và quan niệm về hạnh phúc trần gian, thời gian và tuổi trẻ. Thi sĩ cho rằng, cuộc sống trần thế chính là một “thiên đường ngay trên mặt đất” và những cảnh sắc này cũng chỉ thực sự thần tiên trong cái “xuân thì” của nó, cũng như con người chỉ có thể tận hưởng được những nguồn hạnh phúc ấy trong tuổi trẻ của mình. Mặt khác, tuổi trẻ lại ngắn ngủi, vậy chỉ còn một cách là chạy đua với thời gian, và phải “vội vàng”.

– Phần thứ hai (từ câu “Ta muốn ôm”… đến hết): Thi sĩ xưng “ta” là muốn đối diện với toàn thể sự sống trần gian – đối tượng cần tận hưởng. Nội dung cảm xúc thể hiện rõ ở những hành động vồ vập, chếnh choáng của một chủ thể đầy ham muốn, đang khao khát tận hưởng cho thật nhiều, thật “no nê, đã đầy” hương sắc của trần gian. Nội dung triết luận lại nghiêng về “thực hành”: vội vàng là phải thế nào? Là nhanh chóng, khẩn trương, gấp gáp (tốc độ sống), là mở rộng lòng đón nhận, ôm chứa, thâu tóm cuộc đời (thái độ sống), là phát huy đến tận độ các giác quan và tất cả tâm hồn sôi trào, mạnh mẽ (cường độ sống). 

2. Toàn bài thơ thể hiện một thứ nhạc điệu sôi nổi, nồng nàn, với hơi thơ dạt dào tuôn chảy và giọng điệu cuống quýt, giục giã. Nhạc điệu ấy được tạo nên bằng rất nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau:

– Về cách hiệp vần: Bài thơ có tất cả 39 câu thì chỉ có 12 câu đầu là sử dụng vần “gián cách” (câu 1 hiệp với câu 3, câu 2 hiệp với câu 4) còn lại 27 câu tiếp theo đều sử dụng vần “liên tiếp” (câu 1 hiệp với câu 2, câu 3 hiệp với câu 4… cứ thế cho đến hết). Ưu điểm của loại vần liên tiếp này là nhờ có sự đan quyện, xoắn xuýt của các vần mà nhạc thơ trở nên liền mạch, không bị đứt quãng, rời rạc (gây nên cảm giác như từ đầu đến cuối bài thơ, nhà thơ rất ít dừng lại “lấy hơi”). Chính cái thế “cuồn cuộn một hơi không nghỉ” này đã tạo cho bài thơ cái chất nhạc ào ạt tuôn chảy nói trên:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua, 
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,            
 Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất,            
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,     
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,         
Nói làm chi rằng xuân vào tuần hoàn…       

– Một biện pháp tu từ khác cũng tạo được sức âm vang mạnh mẽ của nhạc điệu thơ Vội vàng là điệp ngữ. Xuân Diệu đã sử dụng nhiều hình thức điệp khác nhau: điệp ngữ, điệp ý, điệp liền mạch, điệp cách quãng…:

Tôi muốn tắt nắng đi                               
Cho màu đừng nhạt mất:                        
Tôi muốn buộc gió lại                              
Cho hương đừng bay đi..                         
Của ong bướm này đây tuần tháng mật; 
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;         
Này đây là của cành tơ phơ phất:            
Của yến anh này đây khúc tình si;..         

Nghệ thuật chuyển đổi vị trí và hình thức điệp hợp lí, tài tình của Xuân Diệu càng khiến cho giai âm của bài thơ thêm sôi nổi, dào dạt, tha thiết: từ điệp cách quãng ông chuyển sang điệp liền câu, từ điệp giữa câu ông chuyển sang đầu câu, từ điệp cụm từ chuyển sang điệp một từ:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già…         

Rồi trở lại với cụm từ “chẳng bao giờ”, “ta muốn” và kết thúc bài thơ bằng lối điệp chỉ một từ:

non nước, cây, cỏ rạng,                               
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng, 
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;…                         

Tóm lại, sự biến hoá, linh hoạt trong cách dùng thủ pháp trùng điệp đã tạo được cho Vội vàng một âm hưởng dồn dập, mạnh mẽ rất phù hợp với cung bậc tình cảm sôi nổi của nhân vật trữ tình trong bài thơ.

– Cách chuyển tiếp các thể thơ và ngắt nhịp cũng đa dạng và linh hoạt: bốn câu đầu – thơ năm chữ, phần còn lại – thơ tám chữ, phần cuối có sự phá cách bằng việc tách ra một câu riêng chỉ gồm 3 chữ “Ta muốn ôm”. Những chuyển đổi này tạo ra những bước ngoặt trong mạch thơ, những đột biến trong cảm xúc, tựa như việc chuyển điệu, chuyển làn, khiến hơi thở tràn đi thành những cao trào liên tiếp… 

Nhịp điệu trong câu thơ tám chữ cũng được ngắt theo dạng phổ biến : 3/3/2 (“Này đây lá / của cành tơ / phơ phất”) rồi đảo nhanh sang 3/2/3 (“Của yến anh / này đây / khúc tình si”), có lúc câu thơ tám chữ bỗng biến thành mười chữ với nhịp giãn rộng 5/5 (“Cho chếnh choáng mùi thơm / cho đã đầy ánh sáng”)… tất cả cộng hưởng khiến cho nhịp điệu cứ sôi nổi, bồng bột, chuyển tải được một điệu tâm hồn say sưa, chếnh choáng. 

– Bài thơ được tổ chức thành một lời bộc bạch khá trực tiếp (của một chủ thể say sưa đang đứng trước một đối tượng giãi bày cụ thể): cách tranh biện hăng hái (“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn. Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!”); từ mang tính khẩu ngữ, từ để trỏ, tạo nhịp điệu cho động thái của chủ thể (Này đây… này đây); lối cắt nghĩa và liên từ liên tục (Nghĩa là… nghĩa là, và… và… và)…

3. Bài thơ thể hiện một cảm nhận, một quan niệm mới của Xuân Diệu về thời gian:

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn  
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!     
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời… 

 – Có thể nói, quan niệm của Xuân Diệu hoàn toàn khác xa với quan niệm truyền thống của phương Đông về thời gian. Thuyết tuần hoàn cho rằng thời gian là một vận động lặp lại, một vòng tròn liên tục tái diễn: trăng tròn rồi lại khuyết, khuyết rồi lại tròn, không có gì mất đi cả. Quan niệm đó xuất phát từ cái nhìn tĩnh có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo thời gian. Ngược lại, Xuân Diệu tin vào quan niệm thời gian tuyến tính: thời gian được hình dung như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại và mỗi khoảnh khắc đi qua là mất đi vĩnh viễn. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn động, rất biện chứng về vũ trụ, về thời gian:

Xuân Hương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,…        

Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian, thậm chí lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh con người là tuổi trẻ để làm thước đo:

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.         
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, 
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,      
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,       
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!           
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,      
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời…        

Vì thế, cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát, đó là một phần đời quý giá trong sinh mệnh cá thể đã mất đi vĩnh viễn:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi     
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt… 

Mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia lìa. Và dòng thời gian được nhìn như một chuỗi vô tận của những mất mát chia phôi, cho nên thời gian thấm đẫm hương vị của chia lìa. Đó là lời thở than của vạn vật, của không gian đang tiễn biệt thời gian; sâu xa hơn, là mỗi một sự vật thiên nhiên đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó. Tất cả tạo nên một sự trôi chảy không ngừng, sự phôi pha, phai tàn của cá thể:

Con gió xinh thì thào trong lá biếc     
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?    
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?   

 Cách cảm nhận về thời gian như vậy, xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời cá thể đều vô cùng quý giá, vì một khi mất đi là mất đi vĩnh viễn. Quan niệm ấy khiến cho con người biết quý từng giây phút của đời mình và biết làm cho mỗi khoảnh khắc của đời mình tràn đầy ý nghĩa. Đây là cơ sở sâu xa của thái độ sống “vội vàng”.

4. Ta biết rằng, Xuân Diệu là nhà thơ của lòng yêu đời và niềm say mê ân ái. Thời gian trong tác phẩm của ông nghiêng hẳn về trục hiện tại, vì vậy không gian của ông tất yếu phải là không gian trần thế. Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc quanh ta hiện ra trong thơ Xuân Diệu tràn ngập một vẻ đẹp quyến rũ, tình tứ kì thú như một “thiên đường nơi mặt đất”:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật; 
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;          
Này đây lá của cành tơ phơ phất;            
Của yến anh này đây khúc tình si;             
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,          
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;         
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;….

 Là nhà thơ luôn đề cao sự sống, coi con người là trung tâm của vũ trụ; đến với thiên nhiên, Xuân Diệu đã đưa ra những nguyên tắc thẩm mĩ hoàn toàn mới. Nếu thơ xưa lấy vẻ đẹp thiên nhiên làm chuẩn mực để so sánh, ví von con người “Miệng cười như thể hoa ngâu – Cái khăn đội đầu như thể hoa sen” (Ca dao); “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” (Truyện Kiều) thì Xuân Diệu đảo ngược lại: lấy con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp thiên nhiên “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Ở đây, thiên nhiên đã được nhìn qua lăng kính ái ân của một tâm hồn khao khát tình yêu. Nhờ đó mà từng cảnh sắc đều tình tứ, mọi cảnh tượng đều tràn ngập xuân tình và bừng bừng sức sống.

Hình ảnh thiên nhiên quen thuộc trở nên hấp dẫn là nhờ Xuân Diệu có lối cảm nhận mới lạ: ông đặt cảnh vật vào hai thời điểm: cái “thời tươi” và trong “độ phai tàn” của nó. Ở giai đoạn thứ nhất, sự vật hiện lên với tất cả vẻ tinh khôi, thanh tân, gợi tình, tươi thắm; trái lại, ở giai đoạn thứ hai, vạn vật đều buồn bã, u ám. Cách nhìn thiên nhiên này cho thấy Xuân Diệu ý thức rất sâu sắc rằng: giá trị lớn nhất của đời người là tuổi trẻ, mà hạnh phúc lớn nhất của tuổi trẻ chính là tình yêu. Đây là một cách nhìn rất tích cực của nhà thơ, thể hiện một tinh thần nhân văn mới. 5. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của nhà thơ:

Ta muốn ôm                                                            
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;                         
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,                          
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,                      
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều                      
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,                              
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng, 
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;                            
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!                 

Toàn bộ đoạn thơ được tổ chức thành tiếng lòng của nỗi khao khát mãnh liệt. Tiếng lòng ấy là một chuỗi điệp cú, hình thái điệp nguyên vẹn, còn động thái và cảm xúc thì điệp lối tăng tiến: Ta muốn ôm, Ta muốn riết, Ta muốn say, Ta muốn thâu, Ta muốn cắn. Vì thế tính cao trào rất rõ nét. Bên cạnh đó, là sự hỗ trợ của những hệ thống điệp từ khác: liên từ – Và… và… và; giới từ điệp nguyên vẹn, gắn với những trạng thái càng lúc càng mãnh liệt: cho chếnh choáng, cho đã đầy, cho no nê,… Tất cả tạo nên những làn sóng ngôn từ đan xen, cộng hưởng với nhau theo chiều tăng tiến, càng lúc càng dâng lên cao trào.

– Hệ thống những tính từ chỉ xuân sắc và cảm giác tận hưởng (mơn mởn, chếnh choáng, no nê, đã đầy,… ), động từ chỉ động thái tiếp nhận đắm say (ôm, riết, say, cắn, thâu…), những danh từ chỉ vẻ đẹp thanh tận, tình tứ, tươi trẻ (mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, thời tươi, xuân hồng, mây dưa gió lượn,…).

Tất cả những phương diện ngôn từ ấy đều được dùng thuần thục, tinh vi, chuyển tải được nhuần nhuyễn những tình ý mãnh liệt và táo bạo của cái tôi thi sĩ.

6. Qua bài thơ, có thể thể hình dung về cái tội Xuân Diệu như sau:

– Một ý thức ráo riết về cái tôi cá nhân và giá trị của đời sống cá thể.

– Một niềm thiết tha với cuộc sống trần thế và thời gian hiện tại của mỗi con người.

– Một khát khao sống, khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc đời.

– Một tâm thế sống cuồng nhiệt tích cực, nồng nàn đắm say.

ĐỀ 233: Phân tích bài thơ Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu.
Đánh giá bài viết