Câu 1: Trong văn bản nghị luận, người ta thường dùng phép phân tích và tổng hợp để làm gì?

Câu 2: Phân biệt hiện tượng nhiều nghĩa với hiện tượng đồng âm của từ. Cho ví dụ minh hoạ.

Câu 3: Trình bày ngắn gọn giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm Truyện Kiều.

Câu 4: Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.

GỢI Ý LÀM BÀI

Câu 1: Trong văn bản nghị luận, người ta thường dùng phép phân tích và tổng hợp để làm rõ ý nghĩa của một sự vật, hiện tượng nào đó.

+ Phân tích là phép lập luận trình bày từng bộ phận, từng phương diện của một vấn đề nhằm chỉ ra nội dung của sự vật, hiện tượng bằng cách vận dụng các biện pháp nêu giả thiết, so sánh, đối chiếu,…

+ Tổng hợp là phép lập luận rút ra cái chung từ những điều đã phân tích. Không có phân tích thì không có tổng hợp. Lập luận tổng hợp thường đặt ở cuối đoạn hay cuối bài, ở phần kết luận của một phần hay ở cuối văn bản.

Câu 2:

– Phân biệt hiện tượng nhiều nghĩa với hiện tượng đồng âm của từ.

– Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối quan hệ với nhau.

Nghĩa chuyển này sinh từ nghĩa gốc.

Ví dụ: Từ chân trong các trường hợp: Anh em như tay với chân; chân bàn, chân trời, chân núi là từ nhiều nghĩa.

– Hiện tượng từ đồng âm: nghĩa của các từ đồng âm hoàn toàn khác nhau, không có mối liên hệ với nhau.

Ví dụ: Con ngựa đá con ngựa đá.

Từ đá đầu tiên là một động từ chỉ hoạt động. Từ đá thứ hai là một danh từ biểu thị sự vật. Đây là hai từ đồng âm.

Câu 3: Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm Truyện Kiều.

1. Giá trị nội dung của tác phẩm

a) Giá trị hiện thực

Truyện Kiều là bản cáo trạng đanh thép lên án tất cả những lực lượng chà đạp con người.

* Lên án bọn quan lại lớn nhỏ và bè lũ tay chân của chúng tham lam, tàn ác, vô trách nhiệm.

– Viên quan xử án vụ Vương Ông khi gia đình họ Vương bị thằng bán tơ vu oan. Tên quan này xử án vì tiền.

– Viên quan xử án vụ Thúc Ông. Thúc Ông hiện lên quan khi thấy Thúc Sinh mua Thuý Kiều về làm vợ lẽ. Đây là tên quan xử án rất hồ đồ.

– Tên quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến. Đây là tên quan bất tài.

– Gia đình Hoạn Thư: Mẹ con Hoạn Thư bàn tính với nhau bắt Kiều một cách trắng trợn.

– Bọn tay chân của quan lại là bọn đầu trâu, mặt ngựa, bọn “ruồi xanh”, bọn Ưng Khuyển

* Lên án bọn buôn người, bọn lừa đảo,…

– Mã Giám Sinh đội lốt thư sinh đi hỏi vợ.

– Tú Bà chủ nhà chứa..

– Sở Khanh bạc tình chuyên lừa gạt, dụ dỗ những người phụ nữ nhẹ dạ.

– Đó là Bạc Bà, Bạc Hạnh

* Lên án thế lực đồng tiền (dẫn chứng).

– Đồng tiền làm tha hóa bọn quan lại => chúng đổi trắng, thay đen… (dẫn chứng).

– Đồng tiền biến kẻ tay chân thành kẻ táng tận lương tâm (dẫn chứng).

– Đồng tiền làm cho bọn buôn người mất hết nhân tính (dẫn chứng).

b) Giá trị nhân đạo

* Truyện Kiều nói lên sự cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du đối với con người đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

– Đồng cảm sâu sắc với Đạm Tiên – một người tài hoa mà bất hạnh.

– Đồng cảm sâu sắc với Thuý Kiều – một người tài hoa mà bất hạnh. Kiều phải 15 năm lưu lạc với bao tâm trạng đắng cay, tủi nhục…

– Đồng cảm với cảnh gia đình Vương Ông bị vu oan.

* Truyện Kiều đã miêu tả được vẻ đẹp đáng quý của những người bất hạnh.

– Thuý Vân, Thuý Kiều đẹp về ngoại hình.

– Thuý Vân, Thuý Kiều đẹp về phẩm chất.

2. Giá trị nghệ thuật

* Tác phẩm thành công về ngôn ngữ:

– Dùng chữ Nôm là chữ của dân tộc để viết Truyện Kiều.

– Sử dụng thể thơ lục bát, thể thơ của dân tộc.

– Kết hợp nhuần nhuyễn ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân.

* Thành công về miêu tả:

– Tả cảnh thiên nhiên: kết hợp tài tình bút pháp tả và gợi. Tác giả miêu tả cảnh mà nói lên được tâm trạng nhân vật

– Tả nội tâm nhân vật: diễn biến tâm trạng nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ độc thoại hoặc qua việc miêu tả cảnh thiên nhiên.

Câu 4: Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và nói lên cảm nghĩ của em.

1. Đặt vấn đề: Giới thiệu tác giả, tác phẩm

– Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh. Trước Cách mạng tháng Tám, ông học trung học ở Hà Nội. Năm 1946 gia nhập Trung đoàn Thủ đô. Năm 1950, ông phụ trách Đoàn văn công quân đội. Vào năm 1953 – 1954, ông tham gia các chiến dịch Thượng Lào và Điện Biên Phủ. Từ năm 1954, ông tiếp tục công tác văn nghệ trong quân đội.

– Bài thơ Đồng chí được sáng tác đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947), đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc.

– Bài thơ Đồng chí là một trong những bài thơ đặc sắc viết về anh bộ đội Cụ Hồ trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Phân tích bài thơ, ta sẽ thấy được tình đồng chí, đồng đội thắm thiết sâu nặng của những người lính cách mạng, phần lớn xuất thân từ nông dân. Bài thơ cũng làm hiện lên hình ảnh chân thực giản dị cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì đâu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn nhiều khó khăn, thiếu thốn

2. Giải quyết vấn đề

a) Cơ sở hình thành tình đồng chí của người lính (7 câu đầu)

– Tình đồng chí, đồng đội bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

Anh ra đi từ một miền quê nghèo khó. Nơi ấy có thể là vùng đất mặn ven biển hay vùng đất có độ phèn chua cao. Tôi cũng sinh ra và lớn lên từ một miền quê đất khô cằn “đất cày lên sỏi đá”

Đó chính là cơ sở cùng chung giai cấp xuất thân của những người lính cách mạng. Chính điều đó cùng với mục đích, lí tưởng chung đã khiến họ từ mọi phương trời xa lạ tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng và trở nên thân quen với nhau.

+ Với lối cấu trúc song hành đối xứng, và bằng sự vận dụng thành ngữ “nước mặn, đồng chua” đúng lúc, đúng chỗ, hai câu thơ đầu đã khẳng định sự đồng cảnh là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.

– Cùng chung mục đích đánh giặc cứu nước cũng chính là cơ sở nảy sinh tình đồng chí đồng đội.

Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hạn quen nhau.

Là những người nông dân từ nhiều miền quê “xa lạ”. Nhưng vì cùng chung mục đích đánh giặc cứu nước nên dẫu cho “chẳng hẹn” họ trở thành những người lính và họ “quen nhau”.

– Tình đồng chí còn được nảy sinh từ việc cùng chung nhiệm vụ, sát cánh bên nhau trong chiến đấu:

Súng bên súng, đầu sát bên đầu.

Cùng bên nhau trong những ngày phục kích giặc giữa rừng khuya, những người lính luôn sát cánh bên nhau. “Súng bên súng” là cách nói hàm súc nhằm diễn tả hai người cùng chung nhiệm vụ đánh giặc. Hình ảnh “đầu sát bên đầu” chỉ sự gắn bó, ý hợp tâm đầu. Điệp từ “bên” có tác dụng nhấn mạnh, khẳng định sự gần gũi, luôn bên nhau của người lính trong chiến đấu.

– Gắn bó bên nhau trong những ngày gian khổ cũng là cơ sở của tình đồng chí, đồng đội:

Đêm rét chung chăn thành đội tri kỉ.

Cuộc sống của người lính trong những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp thật khó khăn, thiếu thốn. Lương thực thiếu, thuốc men thiếu, quân trang, quân dụng đều thiếu. Những người lính phải cùng nhau đắp chăn chung trong những đêm đông giá rét giữa núi rừng “Đêm rét chung chăn thành đối tri kỉ”. Bằng hình ảnh cụ thể, giản dị và hết sức gợi cảm, tác giả đã chuyển tải đến người đọc một thông điệp: tình đồng chí, đồng đội nảy nở và thành bền chặt trong sự chan hoà và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt.

Đột ngột, nhà thơ hạ một dòng thơ đặc biệt với hai tiếng “Đồng chí !”. Câu thơ chỉ có một từ với hai tiếng và một dấu chấm than tạo một nốt nhấn, nó vang lên như một sự phát hiện, một sự khẳng định, đồng thời lại như một gắn kết đoạn thứ nhất với đoạn thứ hai của bài thơ. Sáu câu thơ đứng trước hai tiếng “Đồng chí !” là cơ sở, là cội nguồn của sự hình thành tình đồng chí keo sơn giữa những người đồng đội. Mười câu thơ sau hai tiếng “Đồng chí !” là những biểu hiện cụ thể và cảm động về tình đồng chí giữa những người lính.

b) Những biểu hiện của tình đồng chí ở người lính (10 câu tiếp)

– Biểu hiện đầu tiên của tình đồng chí ở người lính là: sự cảm thông sâu xa những tâm tư nỗi lòng của nhau:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Có thể nói những người lính rất hiểu về hoàn cảnh của nhau. Nói đúng hơn là họ hiểu về nhau một cách tường tận. Vốn là một nông dân, mảnh ruộng đối với anh quý giá biết bao. Vậy mà anh đành “gửi cho bạn thân cày”. Anh ra đi, căn nhà thiếu bóng anh “mặc kệ gió lung lay”, “giếng nước, gốc đa” nơi một thời gắn bó với bao kỉ niệm nhớ thương anh. Anh đã sẵn sàng bỏ lại những gì quý giá thân thiết của cuộc sống nơi làng quê để ra đi vì nghĩa lớn.. hai chữ “mặc kệ” nói lên cái dứt khoát mạnh mẽ của người ra đi. Người lính nông dân ấy vẫn gắn bó, nặng lòng với làng quê thân yêu. “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” và người ra lính cũng da diết nhớ quê hương.

– Biểu hiện thứ hai của tình đồng chí ở người lính là: Họ cùng chia sẻ những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính. Đó là sự ốm đau, bệnh tật:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người dùng trán ướt mồ hôi.

Không có thuốc men, quần áo không đủ ấm, những người lính bị những cơn sốt rét rừng hành hạ. Nhiều khi da các anh xanh như tàu lá, đầu trọc lốc vì những trận sốt rét làm rụng hết tóc. Ta bỗng nhớ đến hình ảnh người lính trong bài Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Đó cũng là cái thiếu thốn, cái gian khổ chung mà những người lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp phải trải qua. – Đó là những thiếu thốn về trang phục tối thiểu:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.

Trong chiến đấu, những người lính không đủ quần áo. Họ phải mặc “áo rách vai”, “quần vài mảnh vá”, “chân không giày”. Thiếu thốn đến như vậy, nhưng giữa rừng núi vào mùa đông giá rét, người lính vẫn “miệng cười buốt giá”. Điều đó khẳng định: dù trong hoàn cảnh nào, người lính vẫn luôn luôn lạc quan, yêu đời.

– Biểu hiện thứ ba của tình đồng chí ở người lính là tình yêu thương:

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Giữa chốn núi rừng khí hậu khắc nghiệt, những người lính dành tình thương để sưởi ấm lòng nhau. Chi tiết “tay nắm lấy bàn tay” làm xúc động lòng người đọc. Họ nắm tay nhau để truyền hơi ấm cho nhau. Họ nắm tay nhau để san sẻ với nhau nỗi gian nan vất vả. Họ nắm tay nhau còn là để truyền cho nhau niềm tin, động viên nhau vượt qua những khó khăn vất vả. Sự chia sẻ đơn giản mà sâu nặng, chan chứa tình người.

=> Chỉ với mười câu thơ mà tác giả đã giúp người đọc hiểu được những biểu hiện rất cụ thể về tình đồng chí của người lính. Tình đồng chí, đồng đội không trừu tượng chung chung mà rất rõ ràng, giản dị. Đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư nỗi lòng của nhau, cùng chia sẻ những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính và đó là tình yêu thương giữa những người lính trong những tháng năm kháng chiến gian khổ. Phải là một người lính, phải trải qua những tháng năm kháng chiến đầy hi sinh gian khổ, tác giả mới có được những vần thơ chân thực và đầy sức thuyết phục đến như vậy.

c) Bức tranh đẹp về tình đồng đội, đồng chí 

Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh rất đặc sắc:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

Chỉ ba câu thơ, nhưng tác giả đã cho người đọc được quan sát một bức tranh đẹp bằng ngôn từ. Đó chính là bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ.

– Trước hết, ta thấy hiện lên trong bức tranh là thời gian, không gian, cảnh vật khi những người lính đi phục kích giặc: “Đêm nay rừng hoang sương muối”. Thời gian: vào ban đêm. Không gian: ở rừng núi. Cảnh vật: “rừng hoang sương muối”. Thời gian, không gian và cảnh vật đều nói về hoàn cảnh người lính đi phục kích giặc. Đây chính là phông nền để nổi lên ba hình ảnh gắn kết với nhau: người lính, khẩu súng và vầng trăng. Trong cảnh rừng hoang sương muối, những người lính phục kích giặc đứng bên nhau. Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ thiếu thốn. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ giữa cánh rừng hoang mùa đông, sương muối giá rét.

– Người lính trong cảnh phục kích giặc giữa rừng khuya còn có một người bạn nữa. Đó là vầng trăng. “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh nhận ra từ những đêm hành quân, phục kích của chính tác giả. Những hình ảnh ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng, được gợi ra từ những liên tưởng phong phú. Súng và trắng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ… Đó là các mặt bổ sung cho nhau, hài hoà với nhau của cuộc đời người lính cách mạng. Vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng.

3. Kết thúc vấn đề

– Bài thơ Đồng chí mang vẻ đẹp bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ trong những ngày đầu gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

– Bài thơ Đồng chí mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí, đồng đội của người chiến sĩ.

– Tác giả đã linh hoạt trong việc vận dụng thành ngữ dân gian để diễn tả tình cảm mộc mạc chân thành của người lính.

– Ngôn ngữ thơ hàm súc, giản dị, mộc mạc, có tác dụng nhấn mạnh vẻ đẹp của người lính xuất thân từ những người nông dân chân chất, bình dị.

– Đây là một trong những bài thơ hay. Chính vì vậy, nó đã được phổ nhạc và trở thành bài hát không chỉ được những người lính yêu thích mà mọi người ở những lứa tuổi, nghề nghiệp khác nhau cũng rất yêu thích.

ĐỀ 18 – Bộ đề thi ngữ văn vào lớp 10
Đánh giá bài viết