BÀI LÀM 

Trăng từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng trong sáng tác thơ ca của các nhà văn Việt Nam. Tuy cùng viết về ánh trăng, nhưng mỗi tác giả lại thể hiện những cảm nhận riêng của mình về ánh trăng ấy. Còn đối với Nguyễn Duy, khi nhìn vào ánh trăng, ông lại hồi tưởng về những kỉ niệm của quá khứ.

Nguyễn Duy viết “Ánh trăng” để diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa. Với chủ đề tư tưởng ấy, bài thơ thể hiện được đặc điểm nổi bật trong phong cách thơ Nguyễn Duy: giàu chất triết lí, thiên về chiều sâu với những trăn trở day dứt, suy tư.

Bài thơ là mạch cảm xúc kéo dài từ quá khứ đến hiện tại. Bài thơ được mở đầu với hình ảnh quen thuộc, thân thương của người dân Việt Nam nói chung và tác giả nói riêng:

Hồi nhỏ sống với đồng 
với sông rồi với bể       
hồi chiến tranh ở rừng  
vầng trăng thành tri kỉ. 

Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với + đồng ruộng, dòng sông, biển cả. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng luôn ở bên cạnh. Đoạn thơ như một lời tự sự hoài niệm về quá khứ của tác giả đã gắn bó với trắng như thế nào. Nhưng phải đến khi ở rừng, nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn xa gia đình, quê hương thì vầng trăng mới trở thành tri kỉ. Hằng đêm có trăng cũng không buồn nơi rừng sâu hẻo lánh. Trăng và tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau. Trăng chia ngọt sẻ bùi, trăng đồng cam cộng “khổ. Tác giả đã khái quát vẻ đẹp của trăng, khẳng định tình cảm yêu thương, quý trọng của mình đối với trăng:

Trần trụi với thiên nhiên  
hồn nhiên như cây cỏ       
ngỡ không bao giờ quên   
cái vầng trăng tình nghĩa. 

Trăng đẹp và giản dị vô cùng, một vẻ đẹp thuần túy mà không cần tô vẽ, đẹp một cách vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên nên trắng hóa vào thiên nhiên, hóa vào cây cỏ. “Vầng trăng tình nghĩa” bởi trăng từng chia ngọt, sẻ bùi, đồng cam cộng khổ, trăng là người bạn, là tri kỉ. Vầng trăng ấy trong chiến tranh, vầng trăng ấy hồi còn nhỏ cứ ngỡ sẽ không bao giờ quên nhưng lại không phải:

Từ hồi về thành phố             
quen ánh điện, cửa gương    
vầng trăng đi qua ngõ          
như người dưng qua đường. 

Tác giả tự thú là mình đã quên cái vầng trăng tình nghĩa ấy. Môi trường sống thay đổi, đời sống cũng thay đổi theo. Cuộc sống hoa lệ bởi ánh đèn, những ngôi nhà cao tầng dường như đã che lấp ánh trăng, cuộc sống hiện đại dễ dàng làm cho người ta quên những thứ đã từng là một phần máu thịt. Vầng trăng tượng trưng cho những năm tháng gian khổ, đó là tình bạn, tình đồng chí mà giờ đây đã trở thành người dưng. Giọng thơ như trùng xuống, như nghẹn lại, một niềm cảm xúc khó diễn tả cho nỗi niềm của con người với ánh trăng mang một chút gì đó là cảm xúc của sự hối lỗi. Phải đến lúc toàn thành phố mất điện:

Thình lình đèn điện tắt   
phòng buyn-đinh tối om 
vội bật tung cửa sổ         
đột ngột vầng trăng tròn.

Vầng trăng xuất hiện thật bất ngờ. Một cảm xúc khó có thể diễn tả bằng lời cứ như ta đã lâu ngày không gặp bạn cũ. Khoảnh khắc ấy, giây phút ấy khiến tác giả bàng hoàng trước vẻ đẹp kì diệu của vầng trăng. Những động từ mạnh đã gợi tả sức mãnh liệt trong dòng cảm xúc của tác giả “thình lình, bật tung, đột ngột” chính là sự thay đổi trạng thái cảm xúc của con người trong bóng tối bất ngờ. Vầng trăng tròn một cách đột ngột. Trăng có khi nào khuyết lại tròn một cách đột ngột như thế, trăng vẫn tròn, vẫn tròn trịa như những kỉ niệm vẫn vẹn nguyên, chỉ có lòng người là thay đổi. Bao nhiêu kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm cho tác giả rưng rưng nước mắt:

Ngửa mặt lên nhìn trăng 
có cái gì rưng rưng         
như là đồng, là bể            
như là sông, là hồ.            

Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong những năm tháng gian khổ. Tác giả không giấu được niềm xúc động mãnh liệt của mình. Vầng trăng nhắc nhở tác giả đừng bao giờ quên những năm tháng gian khổ ấy, đừng bao giờ quên tình bạn. Một cảm giác xót xa đến tủi hờn khi vô tình quên mất ánh trăng:

Trăng cứ tròn vành vạnh 
kể chi người vô tình         
ánh trăng im phăng phắc 
đủ cho ta giật mình.          

Trăng vẫn cứ tròn, cứ im lặng mà chẳng một lời trách móc với con người. Trăng vẫn cứ dịu dàng và hiền lành như thế, trăng vẫn thủy chung dù cho ai thay đổi. Trăng bao dung và độ lượng biết bao. Trăng tượng trưng cho phẩm chất cao quý của nhân dân, trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững của tình bạn. Một phép đối lập song song đủ khiến cho lương tâm con người thức tỉnh và ngộ ra nhiều điều. Khổ thơ cuối đã gieo vào lòng người đọc những cảm xúc khó tả và thức tỉnh con người đang dần lãng quên đi quá khứ.

“Ánh trăng” như một lời tự sự, một lời thú tội chân thành của con người. Con người đã đang dần lãng quên đi những gì gọi là kỉ niệm đẹp. Giọng thơ trữ tình, trầm lắng, tứ thơ bất ngờ, mới lạ. Bài thơ đã hướng người đọc đến một đạo lí của dân tộc Việt Nam – đạo lí thủy chung, ân tình ân nghĩa.

Nguồn website giaibai5s.com

Bài 45: Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy
Đánh giá bài viết