BÀI LÀM 

Sau kháng chiến chống Pháp, miền Bắc được giải phóng, bắt tay vào xây dựng hòa bình, xây dựng cuộc sống mới. Đây đã trở thành đề tài quen thuộc của các nhà thơ mới khi viết về người lao động để ca ngợi không khí lao động sôi nổi của nhân dân. Hòa chung vào tinh thần đó, Huy Cận cũng đã viết “Đoàn thuyền đánh cá” để ca ngợi đời sống của ngư dân ở vùng biển Quảng Ninh.

Bài thơ được bố cục theo hành trình không gian và thời gian một chuyến ra khơi đánh cá của đoàn thuyền. Nhìn kĩ hơn sẽ nhận ra trong bài thơ có hai sự vận động ăn khớp với nhau tạo thành mạch kết cấu của toàn bài thơ. Một là hoạt động của đoàn thuyền theo hành trình lên đường, ra biển khơi đánh cá rồi trở về. Nhưng còn sự vận động khác, vừa làm nền, vừa làm cảnh, vừa hòa nhập với hoạt động trên, đó là sự vận động của thiên nhiên, vũ trụ từ lúc hoàng hôn đến bình minh ngày hôm sau.

Trước tiên, tác giả miêu tả cảnh biển vào đêm và đoàn thuyền ra khơi. Tác giả đã phác họa một bức tranh lộng lẫy của thiên nhiên trên biển đang chìm dần vào bóng đêm:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa. 
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.     
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,  
Câu hát căng buồm cùng gió khơi. 

Mặt trời lúc hoàng hôn được ví như hòn lửa” khiến cho cảnh hoàng hôn trở nên rực rỡ và huy hoàng chứ không gợi cảm giác ảm đạm, hiu hắt như nhiều nhà thơ xưa nay vẫn miêu tả trong thơ của mình. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc phủ một bóng tối mịt mùng. Điểm vào bức tranh ấy là tiếng sóng dịu êm và màn đêm lặng lẽ buông xuống biển được nhân hóa qua hình ảnh “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Ngày đã chuyển sang đêm, chính lúc đó, hoạt động của con người mới diễn ra: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi” Cả một đoàn thuyền chứ không phải là những chiếc thuyền lẻ tẻ. Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Đoàn ngư dân ào xuống đẩy thuyền ra khơi và cất cao tiếng hát khởi hành. Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự, thường nhật, liên tục mỗi ngày của công việc lao động vừa biểu thị ý so sánh ngược chiều với câu trên: đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con người bắt đầu lao động, một công việc lao động không ít vất vả. Họ mang theo âm hưởng tiếng hát hào hứng và sôi nổi, nói lên niềm vui niềm hăng say với công việc lao động dù rằng đánh cá đêm trên biển là công việc vô cùng vất vả. Câu hát làm nổi bật nét tâm hồn của người dân chài, tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn:

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,    
Cá thu biển Đông như đoàn thoi       
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!                

Họ hát khúc ca ca ngợi sự giàu có của biển cả. Ra khơi đánh cá họ cầu mong biển lặng sóng, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Niềm mong ước ấy phản ánh tấm lòng hồn hậu của ngư dân từng trải qua nhiều nắng, gió, bão tố trên biển. Điệp ngữ “biển Đông” nhằm xác định chủ quyền trên biển của dân tộc. Hình ảnh ẩn dụ, so sánh diễn tả chính xác màu sắc và hình dáng của các loài cá. Nhà thơ còn nhân hóa các loài cá trên biển bằng lời mời gọi thân thương: “Cá ơi!”.

Bốn khổ thơ tiếp theo tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển bao la, hùng vĩ. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời, sóng nước, trăng sao có nhiều yếu tố lãng mạn, tràn đầy tưởng tượng dựa trên những yếu tố hiện thực của đời sống, trong đó con người hiện lên trong dáng vẻ trẻ trung, khỏe mạnh và yêu đời.

Thuyền ta lái gió với buồm trăng  
Lướt giữa mây cao với biển bằng, 
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,         
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.    

Đoàn thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm phóng như: | bay trên mặt biển. Con thuyền ra khơi để “dò bụng biển”. Công việc đánh cá được dàn đan như một thế trận hào hùng, cuộc đánh cá thực sự là một trận đánh. Con thuyền, mái chèo, lưới, ngư cụ khác đều trở thành vũ khí của họ. Tư thế và khí thế của những ngư dân thật mạnh mẽ, đầy quyết tâm giữa không gian bao la của biển trời. Như vậy, tầm vóc của con người và đoàn thuyền đã được nâng lên hòa nhập vào kích thước của thiên nhiên vũ trụ. Không còn cái cảm giác nhỏ bé lẻ loi khi con người đối diện với trời rộng sông dài như trong thơ Huy Cận trước Cách mạng. Hình ảnh thơ thật lãng mạn, bay bổng và con người có tâm hồn cũng thật vui vẻ, phơi phới. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên

Bằng nghệ thuật so sánh, liệt kê và nhân hóa, tác giả đã dựng lên được một bức tranh sinh động với vẻ đẹp lung linh, kì diệu của thiên nhiên: 

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,         
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,  
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.    

Nhà thơ liệt kê khá đa dạng các loài cá với đầy màu sắc. Biển quê ta giàu có với nhiều loại cá quý, cá ngon. Tác giả còn nhân hóa các loài cá: “đuôi em quẫy” làm ánh lên màu sắc của cá. Sau cùng là nhịp thở của vũ trụ về đêm. Phải có một tình yêu biển sâu nặng mới có thể viết nên những vần thơ tuyệt bút như thế này. “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” là hình ảnh nhân hóa đẹp. Đêm được miêu tả như một sinh vật đại dương: nó thở. Tiếng thở của đêm chính là tiếng rì rào của sóng. Nhưng tưởng tượng của nhà thơ lại được cắt nghĩa bằng một hình ảnh bất ngờ: sao lùa nước Hạ Long làm nên tiếng thở của đêm. Đây là một hình ảnh đảo ngược, sóng biển đu đưa lùa bóng sao trời nơi đáy nước chứ không phải bóng sao lùa sóng nước. Đây là một hình ảnh lạ – một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận khiến cho cảnh thiên nhiên thêm sinh động.

Những người dân chài cất lên những tiếng hát ngọt ngào để gọi cá vào; tiếng gõ thuyền đuổi cá cùng sóng biển. Biển hào phóng cho nhân dân nhiều tôm cá, muối và hải sản. So sánh biển với lòng mẹ để nói lên lòng tự hào của dân chài đối với biển quê hương. Giọng thơ ấm áp, chan chứa trữ tình.

Biển cho ta cá như lòng mẹ 
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. 

Một đêm trôi qua thật nhanh chóng, trời đang chuyển dần về sáng, người dân càng đẩy nhanh tiến độ lao động. Nhịp điệu nhanh diễn tả sự hào hứng, hăng say:

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,   
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.    
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Trên bầu trời sao đã thưa và mờ. Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Những đôi bàn tay kéo lưới nhanh thoăn thoắt gợi lên vẻ đẹp rắn rỏi, khỏe mạnh với những bắp tay cuồn cuộn của người dân chài khi kéo mẻ lưới đầy cá nặng. Từ phía chân trời bắt đầu bừng sáng. Khi mẻ lưới được kéo lên, những con cá quẫy dưới ánh sáng của rạng đông và lóe lên màu hồng gợi khung cảnh thật rạng rỡ, huy hoàng, tươi đẹp. Câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” tạo một sự nhịp nhàng giữa lao động của con người với sự vận hành của vũ trụ. Con người muốn chia sẻ niềm vui với ánh bình minh. Đoàn thuyền lại trở về bến lúc rạng đông:

Câu hát căng buồm cùng gió khơi,     
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời. 
Mặt trời đội biển nhô màu mới,            
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.        

Ngư dân trên đoàn thuyền lại cất cao tiếng hát – tiếng hát thắng lợi hân hoan. Tiếng hát hòa trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra khơi đêm trước, nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” rất hiện thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về trước khi trời sáng, đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong cuộc dựng xây đất nước sau giải phóng. “Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi” đã vẽ lên cảnh được mùa cá và cuộc sống hạnh phúc, ấm no của nhân dân vùng biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ đã viết nên bài ca cuộc đời. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh, của người.

“Đoàn thuyền đánh cá” là một khúc hát sôi nổi, ca ngợi công cuộc làm lụng vất vả của ngư dân vùng biển. Tuy lao động vất vả song họ vẫn luôn giữ trong mình tinh thần lạc quan, vui vẻ. Đây còn là một bài ca ca ngợi sự giàu có của thiên nhiên ban tặng cho con người, thiên nhiên và con người hòa vào nhau như cùng chung một nhịp. Những nét vẽ về đàn cá biển, về người dân chài đánh cá, kéo lưới, ca hát,… cho thấy một hồn thơ Huy Cận tuyệt đẹp.

Nguồn website giaibai5s.com

Bài 35: Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận
Đánh giá bài viết