A. TIỂU DẪN

1. Vài nét về sử thi .

Sử thi là một thể loại đặc sắc của văn học dân gian các dân tộc thiểu số nói riêng, của văn học dân gian Việt Nam nói chung, gồm hai tiểu loại: Sử thi thần thoại và sử thi anh hùng.

Sử thi thần thoại tập hợp những thần thoại cổ đại lẻ tẻ thành một chỉnh thể mà nhân vật trung tâm là các anh hùng văn hóa (người có công xây dựng và phát triển cộng đồng tộc người), được coi như bộ “bách khoa toàn thư” của một thời kì lịch sử dài hình thành tộc người và đất nước, với dung lượng đồ sộ gồm hàng ngàn câu thơ. Những sử thi thần thoại tiêu biểu là đẻ đất đẻ nước của người Mường, Ấm ệt luông của người Thái, Cây nêu thần của người Mơ-nông,…

Sử thi anh hùng có nhân vật trung tâm là người anh hùng giỏi chiến đấu bảo vệ thị tộc, mở mang phạm vi cư trú của tộc người, đồng thời cũng giỏi lao động, chinh phục thiên nhiên, tổ chức đời sống cộng đồng. Cho đến nay, mới chỉ phát hiện được sử thi anh hùng ở khu vực Tây Nguyên với cách gọi tên khác nhau đối với từng tộc người: khan (Ê-đê), hơ-ri (Gia-rai) hơ-mon (Ba-na), ót-nơ-rông (Mơ-nông),… Đó là những tác phẩm tự sự có dung lượng lớn phản ánh xã hội Tây Nguyên đang ở giai đoạn tiền giai cấp, tiền quốc gia. Sử thi anh hùng mang vẻ đẹp kì vĩ, toàn vẹn, vẻ đẹp “không thể bắt chước” (chữ dùng của Các Mác) chính là do nó đã tạo ra kiểu “nhân vật anh hùng sử thi” với vẻ đẹp riêng của một thời kì lịch sử. Sử thi anh hùng có Đăm Di, Xing Nhã, Khinh Dú (Ê-đê), Đăm Noi (Ba-na),… nhưng tác phẩm được biết đến rộng rãi hơn cả là sử thi Đăm Săn của người Ê-đê.

2. Tóm tắt nội dung của sử thi Đăm Săn .

Cần nhớ 5 sự kiện chính sau đây:

– Về làm chồng hai chị em tù trưởng Hơ Nhị và Hơ Bhị, Đăm Săn trở nên một tù trưởng giàu có và uy danh lừng lẫy.

– Các tù trưởng Kên Kên (Mtao Grứ), tù trưởng Sắt (Mtao Mxây) tới cướp phá buôn của chàng, bắt Hơ Nhị về làm vợ đã bị Đăm Săn đánh trả và đều chiến thắng, cứu được vợ, tịch thu của cải, đất đai của kẻ địch khiến oai danh của chàng càng lừng lẫy, bộ tộc càng giàu có.

– Đăm Săn chặt cây sơ-múc (cây thần vật tổ bên nhà vợ), cả hai vợ đều chết, chàng phải tìm lối lên trời xin thuốc thần cứu sống lại.

– Đăm Săn lên trời hỏi con gái thần Mặt Trời về làm vợ bị từ chối, trên đường về bị chết ngập cả người lẫn ngựa nơi rừng sáp đen nhão như bùn nước.

– Hồn Đăm Săn biến thành con ruồi bay vào miệng chị gái là Hơ Ấng khiến nàng có mang và sinh ra đứa con trai: đó là Đăm Săn – cháu, lớn lên sẽ đi tiếp con đường mà người cậu anh hùng còn để lại.

B. ĐOẠN TRÍCH CHIẾN THẮNG MTAO MXÂY

I. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

Đoạn trích thuộc phần giữa của tác phẩm, kể chuyện Đăm Săn đánh thắng Mtao Mxây cứu vợ về.

Văn bản gồm lời của các nhân vật (Đăm Săn, Mtao Mxây, các tù trưởng, tôi tớ, ông Trời) và lời của người kể chuyện (phần in chữ nhỏ). Khi đọc cần chú ý thể hiện đúng sắc thái tình cảm, giọng đọc của các nhân vật đồng thời đọc một cách rõ ràng, diễn cảm lời của người kể chuyện, đặc biệt là ở phần cuối khi kể lại cảnh ăn mừng chiến thắng của Đăm Săn.

Dưới đây, chúng ta sẽ tìm hiểu văn bản đoạn trích theo bốn câu hỏi trong sách giáo khoa.

1. Tóm tắt diễn biến trận đánh

a) Đăm Săn khiêu chiến và thái độ ngạo nghễ của Mtao Mxây.

b) Hiệp đấu thứ nhất:

– Hai bên lần lượt múa khiên:

+ Mtao Mxây múa trước: tỏ ra kém cỏi (khiên kêu lạch cạch như quả mướp khô).

+ Đăm Săn múa khiên: tỏ ra tài giỏi hơn hẳn (múa trên cao, gió như bão; múa dưới thấp, gió như lốc).

– Kết quả hiệp đấu: Đăm Săn đâm giáo trúng đùi, trúng người Mtao Mxây nhưng không thủng.

c) Hiệp đấu thứ hai:

Được ông Trời mách bảo, Đăm Săn chộp ngay một cái chày mòn, ném trúng vành tai kẻ địch. Cái giáp của Mtao Mxây tức thì rơi loảng xoảng. Mtao Mxây tháo chạy quanh chuồng lợn. Đăm Sản phá tan chuồng lợn. Hắn tránh quanh chuồng trâu, Đăm Săn phá tan chuồng trâu. Mtao Mxây ngã lăn quay ra đất, xin được làm lễ cầu phúc một trâu, một voi để Đăm Săn tha chết. Nhưng Đăm Săn không nghe, chàng đâm nhập một cái, cắt đầu Mtao Mxây đem bêu ngoài đường. Trận đánh diễn ra nhanh chóng và kết thúc bằng thắng lợi của người anh hùng Đăm Săn.

2. Thái độ của đông đảo nô lệ ở cả hai phía cuộc chiến đối với việc thắng thua của hai tù trưởng.

   Ý nghĩa xã hội của loại chiến tranh này là ở chỗ nó không hề kìm hãm sự phát triển của xã hội Ê-đê, mà ngược lại, thúc đẩy sự phát triển ấn những tập thể lẻ tẻ, rời rạc tập hợp dần thành những tập thể lớn hơn, mạnh hơn; và bằng con đường đó, tộc người Ê-đê sẽ hình thành với tư cách là một tổ chức dân tộc hẳn hoi. Với ý nghĩa đó thì “chiến tranh là bà đỡ của lịch sử” như Ăng-ghen đã nhận định. Điều này đã được thể hiện rõ qua thái độ của tác giả sử thi – cũng tức là của tập thể cộng đồng tộc người Ê-đê đối với cuộc chiến tranh ấy.

a) Thái độ của đông đảo nô lệ thuộc cả hai phía đối với cuộc chiến, đối với việc thắng hay thua của hai tù trưởng cầm đầu cuộc chiến:

– Nô lệ của Đăm Săn: vui mừng, hân hoan khi người tù trưởng hùng mạnh của mình đã chiến thắng kẻ thù, làm cho bộ tộc càng thêm mở rộng, giàu có, đông đúc. Trong lễ mừng chiến thắng, “tôi tớ chật ních cả nhà ngoài”, “các chàng trai đi lại ngực đụng ngực. Các cô gái đi lại vú đụng vú. Cảnh làng một tù trưởng nhà giàu trông sao mà vui thế !” Họ cùng hỏi Đăm Săn trong niềm phấn khởi: “Đánh chiêng nào, thưa ông?”

– Nô lệ của Mtao Mxây: Khi chủ của họ đã bị Đăm Săn giết chết thì họ nhất tề, tự nguyện đi theo Đăm Săn, đi theo người tù trưởng hùng mạnh mới của mình. Họ cùng nói lên nguyện vọng của mình: “Không đi sao được ! Tù trưởng chúng tôi đã chết, lúa chúng tôi đã mục, chúng tôi còn ở với ai?” Đoàn người đi về với buôn làng của Đăm Săn “đông như bầy cà tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiến như mối…”

– Mọi người đều hoan hỉ, vui mừng trong ngày lễ ăn mừng chiến thắng của Đăm Săn.

b) Thái độ của những tù trưởng khác cũng là thái độ ủng hộ, đồng tình, cùng đến ăn mừng trong ngày lễ chiến thắng của Đăm Săn. Nhà Đăm Săn đông nghịt khách, các khách tù trưởng đều từ phương xa đến. Từ khắp mọi miền, người ta khiêng rượu, khiêng lợn đến. Chiến thắng của Đăm Săn phải mang ý nghĩa phát triển cộng đồng thì mới được cộng đồng Ê-đê đồng tình, ủng hộ như vậy.

3. Thái độ của tác giả sử thi đối với cuộc chiến được bộc lộ rõ qua kết cấu của đoạn trích.

– Kết cấu của đoạn trích gồm hai phần gần như bằng nhau: kể về cuộc chiến giữa hai tù trưởng và miêu tả lễ ăn mừng chiến thắng của Đăm Săn. Hai phần này tiếp nối và bổ sung ý nghĩa cho nhau: phần lễ ăn mừng chiến thắng không chỉ tôn vinh, đề cao người anh hùng mà còn tô đậm ý nghĩa của chiến thắng: người anh hùng Đăm Săn đã quy tụ mọi người về với mình để tập hợp dần thành những tập thể lớn hơn, mạnh hơn; và mọi người đều tự nguyện đi theo chàng là xuất phát từ quyền lợi của cả cộng đồng như một nghĩa vụ thiêng liêng của họ. Cảnh lễ ăn mừng chiến thắng của Đăm Săn được miêu tả đông vui, tưng bừng chính là để tô đậm và khắc sâu cái ý nghĩa thời đại của cuộc chiến tranh bộ tộc trong sự phát triển của cộng đồng.

Tóm lại, thái độ, cách nhìn nhận của tác giả sử thi (lời người kể chuyện) cũng chính là lời của cộng đồng, lời phán xét của chính lịch sử về hành động của hai loại tù trưởng.

4. Phân tích giá trị miêu tả và biểu cảm của các câu văn có dùng lối SO sánh, phóng đại khi miêu tả nhân vật, khung cảnh diễn ra sự việc.

– Nhiều nhất là những câu sử dụng biện pháp so sánh:

+ So sánh tương đồng, có sử dụng từ so sánh: Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc,…

+ Quan hệ so sánh được tăng cấp bằng hàng loạt ngữ so sánh liên tiếp (đoạn tả tài múa khiên của Đăm Săn).

+ So sánh tương phản (nhiều đoạn tả tương phản giữa Đăm Săn và Mtao Mxây).

+ Dùng nghệ thuật đòn bẩy trong so sánh: bao giờ sử thi cũng miêu tả “tài” của địch thủ trước tạo ra cái đòn bẩy để miêu tả tài của anh hùng nhằm làm nổi bật cái tài xuất chúng của người anh hùng (nêu và phân tích những trường hợp miêu tả đối sánh đó trong đoạn trích).

– Nghệ thuật phóng đại: + Các hình ảnh, sự vật được đem ra làm chuẩn trong so sánh đều lấy từ thế giới thiên nhiên, từ vũ trụ. Dùng vũ trụ để “đo” kích cỡ nhân vật anh hùng là một cách phóng đại để đề cao anh hùng. Nghệ thuật đó rất nổi bật ở sử thi, mang một giá trị thẩm mĩ đặc biệt. Đó chính là phong cách nghệ thuật của sử thi anh hùng Tây Nguyên:

+ Mtao Mxây phải đi ra, trong hắn dữ tợn như một vị thần, giữa một đám đông mịt mù như trong sương sớm.

+ Thế là Đăm Săn lại múa. Chòi lẫm đổ lăn lóc. Cây cối chết rụi. Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung… 

+ Đăm Săn uống không biết say, ăn không biết no, chuyện trò không biết

chán. Chân chàng to bằng xà nhà, đùi to bằng ống bể. Chàng khỏe như con voi đực, hơi thở như sấm vang, nằm xuống sàn nhà thì gẫy cả sàn nhà. Đăm Săn vốn đã ngang tàng từ trong bụng mẹ.

II. LUYỆN TẬP (gợi ý hướng giải bài tập)

   Thần linh (ông Trời) cũng tham gia vào cuộc chiến đấu của con người để giúp người anh hùng chiến thắng kẻ thù. Sử thi anh hùng của các nước khác cũng có đặc điểm này, nhưng ở sử thi anh hùng Tây Nguyên có những điểm riêng biệt:

– Quan hệ giữa thần linh với con người gần gũi, mật thiết hơn, thậm chí bình đẳng, thân tình hơn. Đó là dấu vết của tư duy thần thoại cổ sơ, của một xã hội chưa có sự phân hóa giai cấp rạch ròi.

– Thần linh chỉ đóng vai trò “gợi ý”, “cố vấn”; quyết định vẫn là hành động của con người. Điều đó góp phần đề cao vai trò của nhân vật anh hùng sử thi.

Nguồn website giaibai5s.com

Bài 3: Chiến thắng Mtao Mxây
Đánh giá bài viết