I. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

   Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông buộc phải giảng hòa, chấp nhận rút quân về nước, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô. Mang ý nghĩa trọng đại của một bản tuyên ngôn độc lập, Đại cáo bình Ngô được công bố ngày 17 tháng Chạp năm Đinh Mùi (tức đầu năm 1428). Bài đại cáo này mang đặc trưng cơ bản của thể cáo nói chung (xem trong SGK), đồng thời có những sáng tạo riêng của Nguyễn Trãi.

1. Đọc văn bản

   Văn bản khá dài, được viết theo thể văn biền ngẫu, mỗi câu thường có hai vế đối nhau, cần chú ý đọc theo từng nhịp điệu của phép đối. Cách đọc như sau :

– Đọc thầm toàn bài (đọc chậm) một lần để có ý niệm chung về bài cáo với 4 phần như đã đánh số thứ tự trong SGK.

– Đọc to (diễn cảm) chú ý giọng điệu đọc phù hợp với nội dung từng phần :

+ Đoạn 1: Đọc với giọng trang trọng, tự hào.

+ Đoạn 2: Đọc với giọng đau xót, căm giận nhưng nén vào trong.

+ Đoạn 3 : Đoạn khởi nghĩa đọc với giọng suy ngẫm, lo toan rồi cứng cỏi, tin tưởng. Đoạn miêu tả chiến thắng đọc với giọng hùng hồn, sảng khoái, hả hê pha chút thương hại quân giặc.

+ Đoạn 4 : Đọc với giọng trang trọng, phấn khởi, tự hào.

2. Tìm hiểu tác phẩm :

   Đại cáo bình Ngô là một tác phẩm lớn : nội dung phong phú chứa đựng nhiều tư tưởng sâu sắc, nghệ thuật có nhiều sáng tạo và thành công. Chúng ta chỉ có thể tìm hiểu tác phẩm trên những điểm chủ yếu dựa theo những câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài của SGK.

(1) Tìm hiểu bố cục của bài cáo

   Cáo là thể văn nghị luận, vì vậy bố cục của nó giữ một vai trò quan trọng. Bài cáo gồm 4 đoạn.

– Đoạn 1 (xem như phần Mở đầu): nêu luận đề chính nghĩa : tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước, thương dân (“Việc nhân nghĩa… trước lo trừ bạo”).

– Đoạn 2: Vạch rõ tội ác kẻ thù (trái với nhân nghĩa).

– Đoạn 3 : kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa (đúng với tư tưởng nhân nghĩa, làm nên tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Minh).

– Đoạn 4: Tuyên bố chiến quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân tam (xem như phần Kết thúc).

   Bố cục như vậy là đầy đủ, rõ ràng, chặt chẽ đối với một bài cáo nhằm công bố cho mọi người dân trong nước biết đất nước đã giành lại độc lập, tự chủ, “xã tắc đã vững bền”. Nhưng nó còn lôgíc ở chỗ các phần đều hướng vào nguyên lí tư tưởng được nêu làm luận đề của tác phẩm. Đó là tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước, thương dân để thành tư tưởng độc lập dân tộc xuyên suốt các phần của bài cáo như ta thấy trong bố cục trên đây.

(2) Tìm hiểu đoạn mở đầu

a) Mở đầu bài cáo, tác giả nêu lên một tư tưởng lớn làm nguyên lý cho toàn bài.

                          Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, 

                         Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

   Đó là tư tưởng nhân nghĩa, nhưng không phải nhân nghĩa chung chung, mà gắn với mục đích “yêu dân”, “trừ bạo”, mang nội dung yêu nước, thương dân. Nó đã được chứng minh bằng sự tồn tại của nước Đại Việt ta như một chân lí lịch sử :

         Như nước Đại Việt ta từ trước,

         Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

         Núi sông bờ cõi đã chia,

         Phong tục Bắc Nam cũng khác.

         Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,

         Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

         Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

         Song hào kiệt đời nào cũng có.

Có đủ tất cả các yếu tố của một quốc gia độc lập tự chủ : văn hiến, lãnh thổ, phong tục, con người và đặc biệt là “nền độc lập” đã được gây dựng từ bao đời.

b) Chính vì thế, đoạn mở đầu có ý nghĩa như lời tuyên ngôn độc lập khi tác giả khẳng định mạnh mẽ cái chân lí lịch sử ấy, đồng thời cũng khẳng định cái hậu quả tất yếu về phía kẻ thù, khi chúng xâm phạm đến độc lập chủ quyền của dân tộc ta :

                        Vậy nên :

                        Lưu Cung tham công nên thất bại,

                        Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.

                        Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

                        Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

c) Nói về nước Đại Việt ta, cảm hứng của tác giả tràn đầy niềm tự hào dân tộc. Câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng tạo nên giọng điệu trang nghiêm, khẳng định khi nói về quốc gia độc lập, tự chủ ; và đặc biệt nghệ thuật so sánh lại càng tôn cao và khẳng định thêm điều đó : Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Li, Trần của Việt Nam ngang hàng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc. Không có một niềm tự hào dân tộc mãnh liệt thì cũng không thể có một sự so sánh như vậy.

(3) Tìm hiểu đoạn 2 

a) Đây là đoạn tố cáo tội ác của quân xâm lược nhà Minh. Nguyễn Trãi đã lột trần âm mưu thâm độc của chúng : lợi dụng nhà Hồ chính sự đổ nát, giặc Minh đã vào cướp nước ta :

                     Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa

                     Dối trời lừa dân, đủ muôn nghìn kế . ..

                     Gãy binh kết oán, trải hai mươi năm.

Tác giả khẳng định đó là tội ác “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và kể ra những hành động tội ác man rợ của chúng. Không chỉ bóc lột dân ta bằng “thuế khóa” nặng nề, chúng còn ra sức vơ vét tài nguyên của đất nước, đẩy người dân đến chỗ cùng đường, thậm chí tính mạng không được đảm bảo:

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.

Đến mức :

                   – Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

                   Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.

                   – Nặng nề những nỗi phu phen,

                   Tan tác cả nghề canh cửi.

b) Để nêu rõ tội ác của quân xâm lược, tác giả đã sử dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, sử dụng những câu văn giàu hình tượng (đã nêu ở trên), giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với cảm xúc. Ở phần mở đầu bản cáo trạng là một hình ảnh đầy ấn tượng : “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn – Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”, để rồi kết thúc bằng một hình ảnh có giá trị tổng kết, khái quát cao : “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội – Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Và cuối cùng là lời phán quyết nghiêm khắc, đanh thép của nhân dân về tội ác của chúng :

                  Lẽ nào trời đất dung tha,

                  Ai bảo thần dân chịu được?

(4) Tìm hiểu đoạn 3:

– Phản ánh giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa, tác giả tập trung khắc họa hình tượng người anh hùng Lê Lợi, với ý đồ nghệ thuật : qua hình tượng một con người mà khắc họa được những khó khăn gian khổ và ý chí quyết tâm của toàn dân tộc. Ở hình tượng Lê Lợi có sự thống nhất giữa con người bình thường và lãnh tụ cuộc khởi nghĩa. Nguồn gốc xuất thân bình thường (“Chốn hoang dã nương mình”), cách xưng hô khiêm nhường (“Ta đây”, “Ta gắng chí”, chưa phải là trẫm như sau này), nhưng Lê Lợi lại có những phẩm chất của một lãnh tụ nghĩa quân : có lòng căm thù giặc sâu sắc (“há đội trời chung”, “thề không cùng sống”), có lí tưởng hoài bão lớn (“Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông”), có quyết tâm cao thực hiện lí tưởng (“đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận”). Dựng lên hình tượng người anh hùng Lê Lợi như vậy, Nguyễn Trãi muốn nói lên tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn :

        Nhân dân bốn cõi một nhà, dụng cần trúc ngọn cờ phấp phới; 

        Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.

– Phản ánh giai đoạn hai của cuộc khởi nghĩa, tác giả dựng lên bức tranh toàn cảnh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với bút pháp nghệ thuật anh hùng ca. Đây là đoạn văn hào khí ngất trời, miêu tả sinh động những chiến thắng liên tiếp, vang dội của nghĩa quân Lam Sơn cùng những thất bại thảo của kẻ thù. Là người trong cuộc, Nguyễn Trãi đã tái hiện lại như thật bước đường tiến quân của nghĩa quân Lam Sơn từ trận này đến trận khác, với một khí thế vô cùng dũng mãnh :

                       Trận Bồ Đằng sấm sang chớp giật,

                       Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.

với một sức mạnh chưa từng có :

                       Đánh một trận, sạch không kinh ngạc,

                       Đánh hai trận, tan tác chim muông. 

Những hình tượng phong phú, đa dạng được đo bằng sự lớn rộng, kì vĩ của thiên nhiên :

– Chiến thắng của ta : Sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay, sạch không kinh ngạc, tan tác chim muông, quét sạch lá khô, phá toang đê vỡ, ..

– Sức mạnh của ta : Đá núi cũng mòn, nước sông phải cạn.

– Thất bại của địch : Máu chảy thành sông, máu trôi đỏ nước, thấy chất đầy nội, thấy chất đầy đường,….

– Khung cảnh chiến trường : Sắc phong vẫn phải đổi, ánh nhật nguyệt phải mờ.

   Ngôn ngữ sáng tạo, vừa chuẩn xác vừa gợi hình gợi cảm; các động từ mạnh liên kết với nhau thành những chuyển rung dồn dập, dữ dội; các tính từ chỉ mức độ ở điểm tối đa tạo thành hai mảng trắng, đen đối lập giữa chiến thắng của ta và thất bại của địch. Câu văn khi dài khi ngắn, biến hóa linh hoạt trên cái chung là nhạc điệu dồn dập, sảng khoái cùng với âm thanh giòn giã hào hùng, như sóng trào bão cuốn :

– Ngày mười tám,…; Ngày hai mươi,…; Ngày hăm lăm,… ; Ngày hăm tám,…

         – Lạng Giang, Lạng Sơn thay chất đầy đường;

         Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.

         Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi.

         Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.

   Đoạn văn được Nguyễn Trãi viết thật hào hùng, sảng khoái, tràn đầy niềm tự hào dân tộc cuộc đã tái hiện thành công khởi nghĩa Lam Sơn và ca ngợi chiến thắng lẫy lừng của dân tộc trong cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh.

(5) Tìm hiểu đoạn 4:

– Trong lời kết thúc bài Đại cáo, Nguyễn Trãi thay Lê Lợi trịnh trọng và vui mừng truyền đi tuyên bố nền độc lập tự chủ của dân tộc đã được lập lại: .

Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới.

…………………………………

Muôn thuở nền thái bình vững chắc

Ngàn thu vết nhục sạch làu.

– Tác giả rút ra bài học lịch sử : Sự thay đổi nhưng thực chất là sự phục hưng (bĩ mà lại thái, hối rồi lại minh) là nguyên nhân, là điều kiện để thiết lập sự vững bền. Trong sáu câu, có hai câu nói tới sự vững bền và bốn câu nói tới sự thay đổi. Sự vững bền được xây dựng trên cơ sở đã phục hưng dân tộc, mở ra một viễn cảnh tươi sáng, huy hoàng của đất nước sau chiến thắng :

Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.

(6) Rút ra những giá trị chung của “Đại cáo Bình Ngô”

Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta ở thế kỉ XV.

– Đại cáo bình Ngô là áng “thiên cổ hùng văn” có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương.

II. LUYỆN TẬP

   Gợi ý cách giải bài luyện tập 1 trong SGK:

a) Lập sơ đồ kết cấu của Đại cáo bình Ngô:

b) Phân tích tác dụng của nghệ thuật kết cấu đó:

   Kết cấu trên của Đại cáo bình Ngô là kết cấu mẫu mực cho văn chính luận. Nó đạt đến mức cao khiến cho bài nghị luận rõ ràng, chặt chẽ, lôgic. Mở đầu nêu tiền đề có tính chân lí làm cơ sở tư tưởng để lập luận trong toàn bài. Ở phần Thân bài là soi sáng tiền đề vào thực tiễn, chỉ rõ đâu là phi nghĩa (trái với tư tưởng đã nêu) để tố cáo, lên án; đâu là chính nghĩa (đúng với tư tưởng đã nêu) để khẳng định, ngợi ca. Trong phần Kết thúc, bài cáo rút ra kết luận trên cơ sở tiền đề và thực tiễn như một bài học lịch sử quý giá để mọi người dân đều biết.

Nguồn website giaibai5s.com

Bài 20: Đại Cáo Bình Ngô
Đánh giá bài viết